Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phương pháp tổ chức trò chơi trong dạy học Ngữ văn 6 (bộ sách Chân trời sáng tạo) nhằm phát huy phẩm chất, năng lực của học sinh

Đổi mới phương pháp dạy học luôn là nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Một trong số những biện pháp để đạt được mục đích trên đó là sử dụng trò chơi.Trò chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục: giáo dục bằng trò chơi - một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế giới vận dụng. Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn Ngữ văn, kết hợp với những phương pháp dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới hiện nay.

Đối với học sinh THCS thì hoạt động vui chơi là nhu cầu không thể thiếu và nó giữ vai trò quan trọng đối với các em. Nếu giáo viên biết tổ chức cho học sinh chơi một cách hợp lí, khoa học trong giờ học sẽ mang lại hiệu quả giáo dục cao. Chính vì vậy việc vận dụng trò chơi trong giờ học môn văn ở THCS sẽ làm thay đổi không khí căng thẳng trong các giờ học, tăng thêm hứng thú cho người học, học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn trong đề xuất ý kiến của mình, phát huy tư duy sáng tạo,… Hứng thú và chủ động trong học tập là sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến thức, hình thành kĩ năng và phát triển nhân cách ở học sinh qua bộ môn Văn.

Qua nhiều năm dạy học, được giảng dạy hầu hết các lớp bậc THCS tôi luôn mong muốn làm thế nào để học sinh của mình năng động sáng tạo hơn, hứng thú trong học tập, giờ học bớt căng thẳng, bớt áp lực, làm sao để các em có cảm giác “mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Thông qua thực tế giảng dạy, dự giờ học hỏi ở đồng nghiệp cộng với các đợt tập huấn chuyên môn bản thân tôi mạnh dạn áp dụng tổ chức một số trò chơi trong giờ dạy môn Văn trong nhiều năm học và thấy không khí của mỗi tiết học sôi nổi hẳn lên đến giờ học các em không còn cảm thấy căng thẳng mà rất háo hức mong đợi, học sinh trong lớp hoạt động tích cực và đồng đều, các em mạnh dạn trình bày ý kiến, nêu thắc mắc,…từ đó các em tự chiếm lĩnh kiến thức và ghi nhớ một cách bền vững hơn do đó mà kết quả học tập cũng được nâng cao. Vì vậy, tôi chọn và nghiên cứu đề tài: “Sử dụng phương pháp tổ chức trò chơi trong dạy học Ngữ văn 6 nhằm phát huy phẩm chất, năng lực của học sinh”, rất mong nhận được sự góp ý của các cấp lãnh đạo, Ban giám hiệu, tổ chuyên môn để đề tài phát huy hiệu quả cao hơn.

docx 66 trang Trúc Vân 21/11/2024 712
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phương pháp tổ chức trò chơi trong dạy học Ngữ văn 6 (bộ sách Chân trời sáng tạo) nhằm phát huy phẩm chất, năng lực của học sinh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phương pháp tổ chức trò chơi trong dạy học Ngữ văn 6 (bộ sách Chân trời sáng tạo) nhằm phát huy phẩm chất, năng lực của học sinh

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phương pháp tổ chức trò chơi trong dạy học Ngữ văn 6 (bộ sách Chân trời sáng tạo) nhằm phát huy phẩm chất, năng lực của học sinh
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM NGỮ VĂN LỚP 6
 “Sử dụng phương pháp tổ chức trò chơi trong dạy học Ngữ văn 6 nhằm 
 phát huy phẩm chất, năng lực của học sinh”
 CHƯƠNG 1: 
 CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
 1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp
 Đổi mới phương pháp dạy học luôn là nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo 
dục nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh. Một 
trong số những biện pháp để đạt được mục đích trên đó là sử dụng trò chơi.Trò 
chơi vừa là một hoạt động giải trí vừa là một phương pháp giáo dục: giáo dục 
bằng trò chơi - một phương pháp đã được nhiều nền giáo dục tiên tiến trên thế 
giới vận dụng. Lồng ghép trò chơi trong dạy và học môn Ngữ văn, kết hợp với 
những phương pháp dạy học khác sẽ có ý nghĩa tích cực đối với yêu cầu đổi mới 
hiện nay. 
 Đối với học sinh THCS thì hoạt động vui chơi là nhu cầu không thể thiếu và 
nó giữ vai trò quan trọng đối với các em. Nếu giáo viên biết tổ chức cho học sinh 
chơi một cách hợp lí, khoa học trong giờ học sẽ mang lại hiệu quả giáo dục cao. 
Chính vì vậy việc vận dụng trò chơi trong giờ học môn văn ở THCS sẽ làm thay 
đổi không khí căng thẳng trong các giờ học, tăng thêm hứng thú cho người học, 
học sinh sẽ chú ý hơn, chủ động hơn trong chuẩn bị, mạnh dạn hơn trong đề xuất 
ý kiến của mình, phát huy tư duy sáng tạo, Hứng thú và chủ động trong học tập 
là sự khởi đầu tốt cho việc nắm bắt kiến thức, hình thành kĩ năng và phát triển 
nhân cách ở học sinh qua bộ môn Văn. 
 Qua nhiều năm dạy học, được giảng dạy hầu hết các lớp bậc THCS tôi luôn 
mong muốn làm thế nào để học sinh của mình năng động sáng tạo hơn, hứng thú 
trong học tập, giờ học bớt căng thẳng, bớt áp lực, làm sao để các em có cảm giác 
“mỗi ngày đến trường là một ngày vui”. Thông qua thực tế giảng dạy, dự giờ học 
 2 1.4. Đối tượng và phạm vi áp dụng
 - Đối tượng của giải pháp: Tất cả học sinh cấp THCS nói chung và lớp 6 
nói riêng chưa có hứng thú trong việc học môn Ngữ văn.
 - Phạm vi áp dụng: Cùng với các đồng chí trong tổ Ngữ văn theo dõi, thống 
kê chất lượng bộ môn các năm trước và đưa ra các giải pháp phù hợp trong giai 
đoạn mới. Đề tài được tiến hành từ năm học 2020 - 2021 cho đến hết năm học 
2021 - 2022 tại Trường THCS Võ Trường Toản- TP. Vũng Tàu.
 1.5. Các căn cứ đề xuất giải pháp.
 1.5.1. Cơ sở lý luận.
 Năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức họp báo công bố chương trình 
giáo dục phổ thông mới. Chương trình này được xây dựng theo định hướng tiếp 
cận năng lực, phù hợp với xu thế phát triển của các nước tiên tiến, nhằm tạo 
chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng và hiệu quả giáo dục phổ thông; kết 
hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp; phát huy tốt nhất tiềm năng 
của mỗi học sinh. Đổi mới phương pháp dạy học là một giải pháp then chốt, có 
tính đột phá cho việc thực hiện chương trình này. Một trong những biện pháp góp 
phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy và học là đưa các trò chơi phù 
hợp với đối tượng học sinh và nội dung bài học nhằm phát huy năng lực của học 
sinh và tăng thêm hứng thú cho giờ học, qua đó để nâng cao chất lượng dạy và 
học bộ môn.
 Trong Luật Giáo dục điều 24.2 đã ghi: “ Phương pháp giáo dục phổ thông 
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh phù hợp với 
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng 
làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động 
đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh.”. Có thể nói cốt 
lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập chủ động, chống lại 
thói quen học tập thụ động của học sinh.
 4 chưa phát huy được vai trò, tác dụng vốn có của nó trong quá trình dạy học. Đây 
cũng là một trong các lí do làm đa số HS đều rất sợ học môn Ngữ văn. Các em thường 
học theo kiểu chống đối, tiếp thu kiến thức một cách thụ động. Chính vì vậy mà kết 
quả học tập không cao.
 Năm học 2020-2021 tôi được nhà trường phân công giảng dạy Ngữ văn lớp 
6a4, 6a8 trong những giờ dạy của bản thân cũng như qua những lần dự giờ đồng 
nghiệp tôi nhận thấy một điều rằng hiện nay đang xuất hiện một thực trạng học sinh 
ngày càng thụ động không chịu phát biểu xây dựng bài. Nhiều lần thầy cô giáo đặt 
câu hỏi, dù chỉ là những câu hỏi trong sách giáo khoa nhưng hỏi đi hỏi lại 2, 3 lượt 
nhưng các em vẫn ngồi im lặng, và chính thầy cô là người phải trả lời câu hỏi do 
mình đặt ra, những tình huống như vậy thường gây tâm lí ức chế cho thầy cô rất 
nhiều, thậm chí chán nản, không tha thiết với công việc của mình. 
 Theo kết quả khảo sát (ngày 10/09/2020) học sinh 2 lớp 6a4, 6a8 mà tôi trực 
tiếp giảng dạy về việc HS có hay phát biểu trong giờ học Văn hay không, kết quả thu 
được như sau:
 Số học sinh Phát biểu Có phát biểu Không phát 
 khảo sát nhiều nhưng không biểu
 nhiều
 Lớp 6A4, 6A8 6/82 47/82 31/82
 (84 học sinh)
 Tỷ lệ % 9.52% 53.57% 34.52%
 Từ kết quả trên ta thấy tình trạng lớp học tương đối trầm, tỷ lệ phát biểu ít 
chiếm quá 50%, rồi đến tỷ lệ những học sinh chưa bao giờ phát biểu khá cao trên 
34%, còn lại lượng học sinh hăng hái phát biểu không đáng kể chỉ trên 9%.
 Cũng với 2 lớp trên với câu hỏi “Em có hứng thú khi đến giờ học môn Văn hay 
không?”, kết quả thu được như sau: khảo sát (ngày 10/09/2020)
 6 học chưa phong phú. Chưa có sự linh hoạt và chưa mạnh dạn để đưa các phương 
pháp và kỹ thuật dạy học tích cực vào hoạt động tìm hiểu, tư duy cho học sinh. 
Hoạt động chủ yếu là hỏi, trả lời và vài lần thảo luận nhóm. Thảo luận thì còn 
mang tính máy móc hình thức. 
 - Chuẩn bị một giờ dạy chưa có sự đầu tư, nghiên cứu, trăn trở về nội dung 
của bài, còn quan niệm lên lớp cho xong, hết giờ thì về, nên phương pháp còn gò 
bó, khô cứng, ít sáng tạo.
 - Việc sử dụng đồ dùng dạy học ƯDCNTT còn hạn chế, khai thác chưa triệt 
để, chưa thuần thục nên ảnh hưởng đến sự tiếp thu bài của học sinh.
 Từ thực trạng và nguyên nhân trên, tôi mạnh dạn đề xuất giải pháp: “sử dụng 
phương pháp tổ chức trò chơi trong dạy học Ngữ văn 6 nhằm phát huy phẩm 
chất, năng lực của học sinh”
 1.6. Kế hoạch thực hiện
 Thời gian Nhiệm vụ
 Tháng 9/2021 - Nghiên cứu đề tài
 - Tìm hiểu cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn liên quan 
 Tháng 10,11,12/2021 đến đề tài.
 - Nghiên cứu phương pháp thực hiện đề tài.
 Tháng 12/ 2021
 - Thực hiện khảo sát học sinh 
 (năm học: 2021 -2022)
 Tháng 6/2022
 - Đánh giá kết quả sau khảo sát.
 (năm học: 2021 -2022)
 Tháng 10/ 2022 - Viết, hoàn thành đề tài.
 8 Vì vậy, việc tổ chức các trò chơi trong dạy học Ngữ văn sẽ giúp các em học 
mà chơi, chơi mà học, từ đó việc tiếp thu kiến thức sẽ trở nên nhẹ nhàng, không 
gây áp lực học tập mà lại vô cùng hiệu quả. Đồng thời, thông qua trò chơi, giáo 
viên còn hình thành ở học sinh năng lực khám phá, năng lực tư duy, kỹ năng làm 
việc nhóm, tăng tính gắn kết giữa các thành viên...Đó chính là mục tiêu của dạy 
học theo hướng phát triển năng lực hiện nay.
 2.2. Giải pháp đề xuất
 2.2.1. Gỉai pháp 1:Giáo viên cần nắm chắc nguyên tắc thiết kế trò chơi 
dạy học
 - Nguyên tắc bám sát mục tiêu dạy học và triệt để khai thác các thiết bị 
dạy học sẵn có
 - Khi thiết kế trò chơi dạy học phải căn cứ mục tiêu dạy học, yêu cầu, nội 
dung kiến thức cơ bản, triệt để khai thác các thiết bị dạy học có sẵn của môn học 
(ở thư viện, đồ dùng của GV và HS).
 - Các đồ dùng dạy học tự làm của GV khai thác từ những vật liệu gần gũi
xung quanh (Từ các phế liệu như : Quả bóng bàn không dùng, vỏ hộp bánh kẹo,
 đầu gỗ, đầu nứa, giấy bìa) sao cho đồ dùng vừa đảm bảo tính khoa học, tính 
giáo dục, tính thẩm mỹ nhưng ít tốn kém.
 - Nguyên tắc phù hợp đặc điểm tâm lý lứa tuổi, có sức hấp dẫn cao
 - Trò chơi có sức hấp dẫn, thu hút được sự chú ý, tham gia của học sinh, tạo 
không khí vui vẻ, thoải mái.
 - Trò chơi cần phải gần gũi, sát thực, phù hợp với tâm lý lứa tuổi HS. Tổ 
chức trò chơi không quá cầu kỳ, phức tạp.
 - Nguyên tắc vừa sức, dễ thực hiện
 - Mỗi trò chơi phải củng cố được một nội dung hóa học cụ thể trong chương 
trình (Có thể là kiến thức cần kiểm tra bài cũ, kiến thức bài mới, kỹ năng thực 
hành, vận dụng, luyện tập)
 10 do giáo viên thiết kế để sử dụng trò chơi phải được thể hiện bằng chuỗi các hoạt 
động tương ứng với tiến trình của hoạt động chơi của học sinh được chia thành 
những hành động cụ thể và xác định mục tiêu tương ứng.
 Đặc biệt GVcần xác định rõ mục tiêu của việc sử dụng trò chơi trong giáo án 
của mình. Với mỗi trò chơi sẽ giúp đạt được một mục tiêu của bài học.
 Trong giáo án cần giáo viên cần lưu ý hơn về việc:
 + Dự tính thời gian cho từng hoạt động chơi
 + Xây dựng thang điểm, tiêu chí đánh giá cụ thể, rõ ràng cho từng hoạt động 
chơi.
 + Các tình huống phát sinh có thể phát sinh và biện pháp xử lí
 Trong tổ chức dạy học hóa học bằng cách sử dụng trò chơi, có thể phát sinh 
nhiều tình huống bất ngờ, GV nên lường trước và có sự chuẩn bị để khắc phục, 
xử lí.
 Việc chuẩn bị điều kiện và phương tiện chơi càng chu đáo, đầy đủ thì kết quả 
tổ chức trò chơi càng cao và càng an toàn.
 Giới thiệu và giải thích trò chơi.
 Khi tiến hành tổ chức trò chơi, thông thường GV thực hiện các bước như 
sau:
 * Giới thiệu trò chơi: GV cần giới thiệu thật dí dỏm và hài hước tên gọi và ý 
nghĩa của trò chơi sao cho HS bị cuốn hút vào trò chơi ngay từ những giây phút 
đầu tiên.
 * Thời gian chơi: Tùy thuộc vào từng trò chơi mà GV có thể thông báo thời 
gianchơi. Với những tiết dạy theo phân phối chương trình thì GV cần thông báo 
trước lớp thời gian tiến hành cả trò chơi để tránh cho HS có tâm lí được chơi cả 
giờ học. Thông thường, một trò chơi trong một tiết học chỉ diễn ra trong vòng 5-
10 phút, trừ những tiết luyện tập có thể nhiều hơn còn đối với việc xây dựng trò 
chơi cho một chủ đề thì GV nên phân bố thời gian khoảng 90 đến 120 phút là hợp 
lí. Việc quy định thời gian GV cũng cần căn cứ vào điều kiện cụ thể: lớp có nhiều 
 12 - Khi tổ chức trò chơi dạy học cho học sinh, học sinh thường muốn chơi 
ngaynên giáo viên không giải thích dài dòng mà giải thích ngắn gọn, rõ ràng, dễ 
hiểu làm cho tất cả học sinh nắm rõ cách chơi.
 - Khi giới thiệu và giải thích trò chơi phải hấp dẫn, lôi cuốn được sự chú ý 
và khích lệ được học sinh.
 * Bước 3 : Điều khiển trò chơi.
 - Người điều khiển trò chơi cần thực hiện các công việc sau:
 + Lệnh cho phép trò chơi được bắt đầu.
 + Theo dõi và nắm vững các hoạt động chơi của cá nhân, nhóm tham gia 
chơi.
 + Giảm hoặc tăng thời gian chơi.
 + Thay đổi số lượng người chơi.
 - Thay đổi yêu cầu hoặc cách chơi
 + Khi học sinh bắt đầu cuộc chơi thì người điều khiển trò chơi như một trọng 
tài thi đấu. Vì vậy người điều khiển trò chơi phải theo dõi tiến trình của cuộc chơi 
và nắm chắc mọi chi tiết của cuộc chơi.
 + Người điều khiển trò chơi thường là GV, nhưng với các trò chơi có luật 
chơi đơn giản hoặc các trò chơi quen thuộc thì GV nên để cho HS tự dẫn chương 
trình còn GV thì đóng vai trò là cố vấn.
 * Bước 4: Đánh giá kết quả chơi, trao giải cho người chơi.
 - Khi hết thời gian chơi GV cần chỉ rõ ưu điểm, khuyết điểm của từng đội 
chơi. Để đánh giá được thực chất cuộc chơi giáo viên phải thống kê những ưu 
điểm, khuyết điểm của từng đội chơi trong đó đánh giá:
 + Về mức độ và chất lượng hoàn thành công việc theo yêu cầu.
 + Thời gian đội nào hoàn thành trước.
 + Mức độ thực hiện kỉ luật trước, trong và sau khi chơi.
 + Số lượng nhiều hay ít người vi phạm
 14 Có rất nhiều trò chơi mà GV có thể áp dụng vào quá trình dạy học. Nhưng 
qua quá trình áp dụng vào thực tế tôi thấy những trò chơi sau GV dễ chuẩn bị, HS 
nhiệt tình chơi. Thông qua các trò chơi này góp phần hình thành kiến thức mới 
hoặc kiểm tra lại những kiến thức và mà học đã học.
 2.2.3.1. Sử dụng trò chơi trong hoạt động khởi động bài học 
 * Mục đích:
 - Các trò chơi thường được vận dụng để tạo tâm thế học tập hoặc kết hợp với 
kiểm tra bài cũ. Cách làm này tránh được tâm lí lo sợ của học sinh khi giáo viên 
vào lớp , mở sổ điểm và yêu cầu học sinh lên bảng trả lời các câu hỏi vấn đáp về 
bài cũ. 
 - Tạo hứng thú trước khi học, có tác dụng thư giãn, kích hoạt tâm thế học 
tập.
 * Đặc điểm:
 - Hình thức trò chơi đa dạng, phong phú sẽ giúp học sinh có sự tò mò, kích 
thích sự chú ý và tạo tâm thế thoải mái khi giờ học bắt đầu.
 - Trò chơi có thể tổ chức cho cá nhân hoặc cho nhóm lớn ( chia theo dãy bàn 
được bố trí trong phòng học hoặc theo đội chơi )
 * Cách thực hiện
 Với mục tiêu là tạo hứng thú học tập cho học sinh đồng thời có thể giúp ôn 
tập lại hệ thống kiến thức đã học, tôi đã sử dụng nhiều trò chơi để tổ chức hoạt 
động khởi động.
 + Dạng khởi động tâm trí: Vòng quay may mắn, ai nhanh hơn
 + Dạng khởi động cơ thể: kết bạn, đoán ý đồng đội, nhảy theo nhạc, follow 
the leader
 + Kết hợp khởi động cả tâm trí & cơ thể như: tập thể dục não bộ (Gym for 
brain), Tiếp sức đồng đội,
 Ứng dụng vào bài học cụ thể:
 16 Trò chơi này có thể tổ chức dưới dạng các gói câu hỏi. Mỗi gói câu hỏi đều 
liên quan đến kiến thức của các bài học trước.
 Mục đích: Giúp học sinh tích cực huy động trí nhớ, tư duy và khả năng phản 
ứng nhanh về các nội dung đã được học.
 Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị các gói câu hỏi và đáp án cho các đội chơi, 
thẻ điểm 
 Ví dụ 1: Khi dạy bài 2, Tiết đọc văn bản “Em bé thông minh”. Giáo viên 
tổ chức hoạt động khởi động thông qua trò chơi “Ai nhanh hơn”.
 Cách thức tổ chức: 
 - GV chiếu 4 bức tranh.
 - HS thực hiện 2 nhiệm vụ sau:
 1. Quan sát những bức tranh và đoán xem: thần đồng toán học Lương Thế 
Vinh đã xử trí thế nào khi sứ giả nhà Minh thách ông cân một con voi?
 2. Trả lời câu hỏi: Từ câu chuyện về Lương Thế Vinh, theo em, thế nào là 
người thông minh?
 HS nào trả lời nhanh nhất và chính xác nhất thì được cô giáo biểu dương. Từ 
đó, GV kết nối vào truyện cổ tích thứ 2 được học trong bài 2 “Miền cổ tích”.
 18 - Lưu ý: GV nên chọn những hình nền có ý nghĩa, và khó đoán khi chỉ mở 
được một vài mảnh ghép
 * Ví dụ:
 Ngữ văn 6 – tập một: Tiết 3: Lắng nghe lịch sử nước mình
 - Giáo viên dùng trò chơi “Lật mảnh ghép” để khởi động kiểm tra kiến thức 
cũ và kết nối với bài học mới.
 - GV chuẩn bị 4 mảnh ghép bị giấu kín thể hiện một chủ đề về những sự kiện 
liên quan đến lịch sử tương ứng với những câu chuyện truyền thuyết mà các em 
đã biết. 
 - Hình 1: Con rùa.
 - Hình 2: Con ngựa sắt.
 - Hình 3: Con voi.
 - Hình 4: Con gà chín cựa.
 - HS sẽ lần lượt chọn mảnh ghép. Mỗi mảnh ghép là 1 câu hỏi. Trả lời đúng 
câu hỏi mảnh ghép sẽ được lật mở.
 - Khi mảnh ghép được lật mở HS sẽ đoán ra được hình nền là chủ đề chung 
của các hình ảnh.( Đó là những câu chuyện truyền thuyết kể về những sự kiện lịch 
sử của đất nước)
 - Nếu đoán đúng hình nền GV có thể yêu cầu HS giới thiệu về hình nền mà 
em vừa lật mở. 
 Đáp án của mảnh ghép.
 - Sự tích Hồ Gươm (Truyện ADV và MC Trọng Thủy)
 20

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_phuong_phap_to_chuc_tro_choi_t.docx