Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả học toán cho học sinh Lớp 2 theo hướng Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề

Trong trường phổ thông nói chung và trường Tiểu học nói riêng, cùng với tất cả các môn học khác trong chiến lược giáo dục toàn diện, có thể nói, toán học đóng một vai trò hết sức quan trọng. Nó rèn luyện cho các em không phải đơn thuần là những tính toán mà điều chủ yếu là năng lực tư duy. Chính bởi tư duy sâu sắc mà các em có thể nhạy bén hơn trong nhiều môn học khác. Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng đã nêu : “ Toán học là môn thể thao của trí tuệ, giúp chúng ta nhiều trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết vấn đề, giúp chúng ta rèn trí thông minh sáng tạo.”
Và mục tiêu giáo dục ở Tiểu học là đào tạo học sinh trở thành người lao động sáng tạo. Dạy học toán không chỉ là dạy tri thức và kĩ năng toán học, mà còn hình thành và phát triển ở học sinh phương pháp, năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề. Dạy học giải quyết vấn đề là một định hướng xuyên suốt quá trình dạy học toán từ Tiểu học đến trung học phổ thông.
Là giáo viên nhiều năm giảng dạy lớp 2, tôi xét thấy, trong chương trình môn toán lớp 2 chứa đựng nhiều kiến thức mới mẻ, phức tạp đối với lứa tuổi lên 7 -8. Trong các giờ học toán học sinh vẫn còn gặp nhiều khó khăn khi gặp vấn đề đòi hỏi các em phải nỗ lực giải quyết để chiếm lĩnh tri thức. Nhưng làm thế nào để giúp các em học tốt môn Toán đồng thời phát triển được năng lực tư duy? Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là một trong những phương pháp dạy học đang được quan tâm nhằm nâng cao chất lượng của môn Toán trong nhà trường hiện nay . Đây là phương pháp dạy và học mới phù hợp với triết lý về khoa học và giáo dục hiện đại, đáp ứng tốt những yêu cầu về giáo dục trong thế kỉ 21. Đặc biệt là đối với dạy học môn Toán vì quá trình giải toán là quá trình phát hiện và giải quyết vấn đề.
Qua nhiều năm giảng dạy ở Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 2, tôi thấy các em khá năng động, tích cực và húng thú trong học tập tuy nhiên năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề trong quá trình giải toán chưa nhạy bén nên ảnh hưởng nhiều đến kết quả học tập môn Toán.
Nhận thức được thực trạng và tầm quan trọng của việc nâng cao hiệu quả học tập, hình thành năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề cũng như hiệu quả của phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề thông qua dạy học toán cho học sinh, kết hợp với tích lũy kinh nghiệm qua những năm giảng dạy, tôi đã quyết tâm thực hiện biện pháp “ Nâng cao hiệu quả học toán cho học sinh lớp 2 theo hướng Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề.”
docx 11 trang Trúc Vân 10/12/2024 320
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả học toán cho học sinh Lớp 2 theo hướng Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả học toán cho học sinh Lớp 2 theo hướng Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề

Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả học toán cho học sinh Lớp 2 theo hướng Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
 2
tòi, nghiên cứu và sáng tạo trong mỗi bài dạy, mỗi môn học. Bản thân tôi cũng luôn tâm niệm 
điều đó, sự tận tâm, trách nhiệm và không ngừng sáng tạo là chìa khoá thành công của mỗi người 
thầy. Tôi thực hiện biện pháp Nâng cao hiệu quả học toán cho học sinh lớp 2 theo hướng Dạy 
học phát hiện và giải quyết vấn đề với mục đích phát huy được năng lực giải quyết vấn đề và 
tư duy sáng tạo của học sinh trong học tập môn Toán, bên cạnh đó cũng góp phần hình thành 
nền tảng tư duy nhạy bén để các em chiếm lĩnh kiến thức ở những môn học và hoạt động giáo 
dục khác. Không chỉ học sinh mà bản thân tôi cũng tự mình lĩnh hội được những bài học quý giá 
cho công tác giảng dạy qua nghiên cứu và áp dụng giải pháp này trong thời gian dạy học môn 
Toán ở lớp Hai vừa qua.
 PHẦN II. NỘI DUNG
 1 . Nôi dung các biên pháp đã tổ chức thực hiên
 1.1 Tìm hiểu và nắm vững quy trình thực hiên của Phương pháp Dạy học phát hiên 
và giải quyết vấn đề.
 Trong quá trình dạy hình thành môt dơn vị kiến thức, kĩ năng nào đó, tôi thực hiên 
theo 3 giai đoạn: Trước khi dạy, trong khi dạy và sau khi dạy.
 Trước khi dạy:
 Tôi luôn :
 + Chuẩn bị các kiến thức gần gũi, cần thiết với học sinh.
 + Xây dựng tình huống, xác định đối tượng học sinh và cách thức tổ chức dạy học.
 + Chuẩn bị các phương tiện đồ dùng dạy học.
 Trong khi dạy học, tôi
 + Tổ chức triển khai kế hoạch dạy học, xử lí các tình huống nảy sinh.
 + Tổ chức triển khai tình huống có vấn đề.
 + Tổ chức hoạt động của học sinh nhằm phát hiện vấn đề gợi động cơ giải quyết vấn đề 
cho học sinh.
 + Tổ chức các hình thức học tập: cá nhân, nhóm, đồng loạt để giải quyết vấn đề. Tôi luôn 
chú trọng đến phân hóa đối tượng trong tổ chức học sinh giải quyết vấn đề. Có biện pháp hỗ trợ 
kịp thời, phù hợp với từng đối tượng học sinh.
 + Tổ chức thảo luận về giải pháp giải quyết vấn
 + Phân tích lời giải đưa ra tri thức mới..
 Sau khi dạy, tôi:
 ''r r r r r
 + Củng cố một số kĩ năng và kiến thức đã hình thành trong quá trình giải quyết vấn đề, 
chuẩn bị cho việc phát hiện và giải quyết vấn đề tiếp theo.
 1.2: Hình thành, rèn luyện kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề cho học sinh trong 
 dạy học môn Toán:
 Theo từ điển Tiếng Việt, kĩ năng: là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được 
trong một lĩnh vực nào đó vào thực tiễn. Trong học toán: Khi giải quyết vấn đề được xem như 
một kĩ năng cơ bản thì những điều cần quan tâm là các nội dung cụ thể của bài toán, các dạng 
bài toán, phương pháp giải các dạng toán đó. Rèn luyện kĩ năng giải quyết vấn đề là rèn luyện 
cho học sinh kĩ năng lựa chọn phương pháp giải, thực hiện các kĩ thuật giải đối với mỗi bài toán. 
Giải quyết vấn đề là kĩ năng xử lí. Khi giải quyết vấn đề, học sinh phải tiến hành theo các bước, 4
đưa học sinh vào quá trình trải nghiệm rút ra tri thức mới.
 Tôi nghiên cứu kĩ nội dung dạy học, nghiên cứu sách giáo khoa, chuẩn kiến thức kĩ năng 
và những yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học để tùy theo từng bài học, từng nội dung 
kiến thức mà tạo ra các tình huống có vấn đề. Sau đây là một số cách tạo ra tình huống có vấn 
đề mà tôi đã thực hiện trong quá trình dạy học toán ở lớp 2:
 » Xây dựng tình huống có vấn đề từ thực tiễn:
 Đưa ra tình huống xuất phát từ thực tiễn mà tình huống này chứa đựng vấn đề toán học.
 Những bài toán ở dạng này thường rất đơn giản với người lớn, có thể là hiển nhiên, nhưng 
trẻ em thì không phải vậy. Vì thế, không thể áp đặt sự đơn giản, dễ hiểu mà người lớn cảm nhận 
cho trẻ.
 Bên cạnh đó, nội dung các bài toán thường rất gần gũi với các sự vật, hiện tượng trong đời 
sống. Do đó, ngoài việc giúp học sinh hiểu bài toán, chúng ta còn giúp các em hiểu mối quan hệ 
giữa các sự vật hiện tượng đó, qua đó các em tăng cường kinh nghiệm sống cho bản thân. Khi 
giảng giải cho học sinh, việc quan trọng là giúp các em bóc tách kiến thức toán ra khỏi bề ngoài 
rườm rà của nó; từ đó hình thành các phép tính, các quan hệ toán học.
 Ví dụ bài toán: Hai chị em chia nhau 5 cái kẹo. Biết em nhiều hơn chị 1 cái kẹo, hỏi chị 
được mấy cái kẹo, em được mấy cái kẹo?
 Bài toán tưởng chừng như đơn giản lại là cả vấn đề đối với học sinh 7-8 tuổi. Lúc này giáo 
viên cần dựa trên kinh nghiệm thực tiễn mà các em đã có để hướng dẫn cách giải bài toán theo 
các bước ứng với các hoạt động rèn luyện năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề.
 Học sinh phải tiếp cận đề toán, phát hiện vấn đề cần giải quyết chính là tìm ra số kẹo của 
mỗi người. Dựa trên dữ kiện mà đề cho các em sẽ hình thành các giả thiết: Tổng số kẹo của 2 
chị em là 5 vậy nếu chị có 0 cái thì em có 5 cái, nếu chị có 1 cái thì em có 4 cái.... cho đến :nếu 
chị có 5 cái thì em có 0 cái .Nhưng số kẹo của em nhiều hơn chị 1 cái nên Giả thiết chị có 2 cái, 
em có 3 cái sẽ được chọn. Như vậy vấn đề đã được giải quyết.
 Có thể thể hiện dưới dạng bảng:
 Chị Em
 0 5 Loại
 1 4 Loại
 2 3 Chọn
 3 2 Loại
 4 1 Loại
 5 0 Loại
 Dựa trên cách phân tích này sẽ giúp học sinh rèn luyện thói quen tìm cách giải tốt 110'11...
 • Tao tình huống có vấn đề từ các kiến thức đã biết bằng cách biến đổi hoăc “dấu 
đi” một yếu tố( yếu tố của phép tính, một chữ số khuyết trong khi thực hiện thuật toán, 
một vài nét khuyết của hình vẽ, ...) yêu cầu học sinh tìm lại yếu tố đó:
 Sau khi hình thành các kiến thức toán học, nếu giáo viên chỉ đưa bài tập vận dụng trực 
tiếp kiến thức thì nó không chứa đựng vấn đề. Giáo viên có thể tạo ra tình huống có vấn đề bằng 6
 quả từng phép tính và điền kết quả đó vào bảng.
 Như vậy trong quá trình dạy học để học sinh tiếp cận tri thức toán một cách sâu sắc và 
 hiệu quả thì giáo viên phải tổ chức các hình thức, tạo ra các tình huống có vấn đề đồng thời 
 cũng là tạo cơ hội để học sinh tự lĩnh hội tri thức sau khi đã giải quyết được vấn đề.
 • Tổ chức tình huống có vấn đề yêu cầu hoạt động khái quát hóa;
 Giáo viên đưa ra các đối tượng toán học cụ thể, yêu cầu học sinh quan sát, phân tích và tìm 
cách khái quát hóa bằng cách nêu được những nét chung của của các đối tượng đó , hoặc xác 
định mối mối quan hệ giữa các đối tượng cụ thể, từ đó rút ra quy luật chung về các mối quan hệ 
đó.
 Ví dụ: Viết số thích hợp vào chỗ chấm:
 3; 6; 9; ...; ...; ...
 Học sinh sẽ quan sát dãy số, thử tìm mối quan hệ giữa các số trong dãy và nhận xét: số đầu 
tiên là 3, nếu lấy 3 cộng thêm 3 được 6, lấy 6 cộng thêm 3 được 9. Vậy số đứng sau 9 sẽ là 9 
cộng 3 bằng 12, số đứng sau 12 sẽ là 12 cộng 3 bằng 15, số đứng sau 15 sẽ là 15 cộng 3 bằng 
18.
Vậy dãy số có thể viết tiếp: 3; 6; 9; 12; 15; 18.
Ở đây tuy học sinh không cần phát biểu quy tắc , nhưng đã khái hóa thành quy luật “ cộng thêm 
3 vào số đứng trước thì được số đứng sau”.
 • Tổ chức hoạt động trên các đồ vât thât, trên các mô hình để rút ra một tri thức toán 
 học ( một tính chất, một công thức.)
 Học tập là một quá trình chủ động do vậy, thầy không thể học thay trò. Học trò có thể 
hiểu biết hay không phụ thuộc vào những gì diễn ra trong đầu các em chứ không phải phụ thuộc 
vào cái diễn ra trong đầu giáo viên. Vì vậy muốn học sinh học tập có kết quả, giáo viên phải lôi 
cuốn các em vào những hoạt động học tập do mình tổ chức, hướng dẫn, thông qua đó các em tự 
lực khám phá những điều mình chưa biết chứ không phải tiếp thu nhưng tri thức đã được sắp đặt 
sẵn. Để làm được việc này, giáo viên cần tạo ra tình huống trong đó người học sẽ gặp phải những 
vấn đề cần giải quyết, qua đó đạt được sự thông hiểu kiến thức và cách suy nghĩ có phê phán. 
Hoạt động sử dụng đồ dùng trực quan đặt học sinh vào trong các tình huống thực tế: các em trực 
tiếp quan sát, thảo luận, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó vừa nắm 
được kiến thức mới, kĩ năng mới, vừa nắm được cả phương pháp “làm ra” những kiến thức, kĩ 
năng đó. Những hoạt động học sinh có thể kể ra như nhìn, nói, viết, vận động, thao tác trực tiếp 
trên các đồ dùng trực quan... Từ học làm đến biết làm, muốn làm và làm việc một cách tích cực, 
sáng tạo, có hiệu quả cao chính là quá trình hình thành và phát triển nhân cách tự chủ, năng 
động, sáng tạo.
 Ví dụ 1: Khi dạy bài: Ki - lô - gam hay Đề -xi - mét, giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành 
cân, đo để nắm được kiến thức sâu hơn đồng thời liên hệ vào thực tế tốt hơn.
 1.4. Lập kế hoạch dạy học theo hướng dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề:
 - Xác định mục tiêu học: Nên chú trọng đến một số mục tiêu thực sự, đặc biệt là mức độ về 
kĩ năng phát hiện và giải quyết vấn đề đối với từng nhóm đối tượng học sinh .
 - Tạo vấn đề của bài học: Có thể dựa vào sách giáo khoa, các tài liệu tham khảo, căn cứ vào 8
 - Đọc đề, tìm từ khóa là nhiều hơn.
 - Xác định dữ kiện : Thùng thứ nhất có: 16l dầu
 Thùng thứ hai nhiều hơn thùng thứ nhất : 3l dầu
 - Vấn dề cần giải quyết: Tìm số lít dầu ở thùng thứ 2
 Tìm giải pháp:
 - Phân tích đề, xác định mối quan hệ : thùng thứ hai nhiều hơn thùng thứ nhất 3 lít dầu.
 - Liên tưởng tới dạng toán: Bài toán về nhiều hơn, lựa chọn phép tính cộng.
 Trình bày giải pháp:
 - Tìm câu trả lời: Đưa ra lời giải phù hợp dựa trên dữ kiện và câu hỏi mà bài toán đưa ra:
 Bài giải
 Số lít dầu thùng thứ hai có là:
 16 + 3 = 19 ( lít)
 Đáp số: 19 lít dầu
 - Kiểm tra kết luận;
 - Giải thích cách làm ( những gì đã làm, đã làm như thế nào, tại sao lại làm như thế...)
 1.6. Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề theo các giai đoạn :
 • Dạy học giải quyết vấn đề khi hình thành kiến thức mới:
 Tôi căn cứ vào mục tiêu, tình hình dạy học, trình độ học sinh để tạo ra các tình huống có 
vấn đề, giúp học sinh trải nghiệm phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề. Từ đó rút ra kiến thức 
toán học mới cho bản thân một cách chủ động và đầy hứng thú.
 Ví dụ 1: Khi tổ chức cho học sinh phát hiện sự cần thiết của đơn vị đo độ dài ở lớp 2, tôi 
đặt vấn đề so sánh độ dài các đồ vật như bút, thước, que tính,. làm thế nào biết cái nào dài hơn? 
( Học sinh phát hiện phương pháp so sánh trực tiếp các đồ vật đó với nhau như thước với bút 
chì.) - phương pháp so đũa.
 Tôi cho học sinh phát hiện trường hợp không thể so sánh trực tiếp được, chẳng hạn: so sánh 
độ dài của hai vật cố định xa nhau không chuyển dời được, học sinh phải suy nghĩ và đề xuất 
phương pháp mới, phương pháp gián tiếp - thông qua so sánh với độ dài của một đối tượng 
thứ ba, và sau đó sẽ dẫn đến một cách mới: sử dụng đơn vị đo.
 Khi đó học sinh có biểu tượng về đơn vị đo không chuẩn như gang tay, bước chân, sải tay.
 Lại xuất hiện tình huống có vấn đề mới: cùng một đối tượng, với nhiều bạn đo bằng gang 
tay thì kết quả khác nhau. Dẫn đến cách giải quyết mới: đưa ra đơn vị đo chuẩn cm, dm, m.
 Tôi cũng có thể thực hiện tương tự khi dạy các đại lượng khác như khối lượng, dung tích,.
 Ví dụ 2: Hình thành biểu tượng về hình học
 Để hình thành biểu tượng về hình học cho học sinh, tôi đã áp dụng nhiều cách. Chẳng hạn 
khi hình thành biểu tượng về hình tứ giác, tôi tổ chức cho học sinh làm việc, trên cơ sở đó phát 
hiện ra một lớp đối tượng mới, khác với hình đã học, và cùng học sinh thống nhất cách gọi tên: 
hình tứ giác. Tôi đưa ra cho học sinh một bộ gồm các hình tam giác khác nhau, các hình tứ 
giác khác nhau, các hình tròn kích cỡ khác nhau.. Sau đó yêu cầu học sinh xếp các hình này 
thành các nhóm riêng, sao cho các hình giống nhau vào cùng một nhóm. Kết quả là học sinh 
phân loại các tam giác vào cùng một nhóm, các tứ giác cùng một nhóm, các hình tròn thuộc 
một nhóm. Nhóm hình tam giác và hình tròn đã quen thuộc với học sinh, riêng nhóm còn lại 
chưa có tên gọi. Học sinh sẽ nảy sinh nhu cầu: các hình ở nhóm mới này có thể đặt tên gì? Tôi 
và học sinh cùng thống nhất tên gọi: đó là các hình tứ giác. 10
 Cuối kì I 38 26 68,4 8 21,1 3 7,9 1 2,6
Cuối năm học
 38 28 73,7 6 15,8 3 7,9 1 2,6
 HỌC KÌ I NĂM HỌC: 2022 - 2023 (Sau khi thực hiện biện pháp )
 Điểm dưới 
 Điểm từ trung bình trở lên
 Tong trung bình
 Thời điểm
 số HS Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm 3-4
 TS % TS % TS % TS %
 Cuối kì I 26 23 88,4 3 11,6 0 0 0 0
 - Sau quá trình áp dụng sáng kiến, tôi cũng nhận được sự đánh giá cao về tính khả thi và 
 hiệu quả mà sáng kiến mang lại từ phía các giáo viên đồng nghiệp trong khối, Ban giám hiệu 
 nhà trường. Kết quả học tập môn Toán của học sinh trong lớp học mà tôi giảng dạy luôn cao 
 hơn so với các lớp khác cùng khối.
 - Tóm lại với việc áp dụng sáng Nâng cao hiệu quả học Toán cho học sinh lớp 2 theo 
 hướng dạy học Phát hiện và giải quyết vấn đề. tôi đã góp phần nâng cao được hiệu học Toán 
 của học sinh lớp 2. Bản thân tôi thiết nghĩ các anh chị đồng nghiệp khác nếu áp dụng thực hiện 
 cũng sẽ đem lại kết quả cao trong quá trình dạy học Toán cho học sinh. Không những thế quá 
 trình áp dụng sáng kiến còn đem lại nhiều ý nghĩa cho học sinh, giúp các em trở nên năng 
 động, tích cực hơn, hình thành thói quen tư duy sáng tạo, phát triển ở các em năng lực Phát 
 hiện và giải quyết vấn đề.
 PHẦN III. KẾT LUẬN
 1. Bài học kinh nghiệm
 • Về phía giáo viên:
 - Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là một phương pháp ý nghĩa trong việc góp 
 phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học theo chuẩn kiến thức - kỹ năng nhằm 
 phát huy tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh .
 - Giáo viên không phải là người truyền tải kiến thức mà là người tạo ra tình huống để 
 học sinh hoạt động thiết lập các cấu trúc nhận thức cần thiết, là người tổ chức, chỉ đạo học sinh 
 kiến tạo kiến thức, tự chiếm lĩnh kiến thức.
 - Sự quan tâm của giáo viên đối với học sinh có ý nghĩa quan trọng trong việc khích lệ 
 học sinh vươn lên trong học tập. Rèn luyện toán học không có phải là kỳ vọng các em trở thành 
 những nhà toán học, mà chính là rèn luyện tư duy để các em trở nên linh hoạt hơn khi tiếp cận 
 những vấn đề trong nhà trường hoặc ở cương vị nào trên bước đường mai sau.
 - Cần hướng tới mọi đối tượng học sinh chứ không chỉ áp dụng cho học sinh khá
 giỏi.'''
 - Học sinh rất mong ở người thầy một giờ học vui ngay từ bài đầu giúp cho các em chiếm 
 lĩnh tri thức vững chắc. Chính vì thế người thầy bên cạnh nắm vững nội dung, phương pháp 
 thì cần tự bồi dưỡng nghiên cứu để nâng cao nghiệp vụ của mình, cần có đôi chút sáng tạo 
 trong lao động của người Thầy.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_hieu_qua_hoc_toan_cho_hoc_sin.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả học toán cho học sinh Lớp 2 theo hướng Dạy học phát hiện và.pdf