Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 học tốt dạng toán có lời văn

Đất nước ta đang trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc đất nước chúng ta có thể tiếp tục phát triển sánh vai với các nước trong khu vực và trên thế giới hay không là phụ thuộc vào chúng ta và các thế hệ, con cháu chúng ta. Ai trong ngành giáo dục và bất cứ ai quan tâm đến việc học của con em mình đều phấn đấu cho con em mình tiếp thu những tri thức sâu rộng của nền văn minh nhân loại, trở thành những người có học, có đức, có tài phục vụ đất nước.

Tiểu học là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục ở Việt Nam. Có thể nói đây là mức cơ bản và cực kỳ quan trọng. Mỗi môn học ở cấp tiểu học đều có những vai trò riêng, trong đó môn toán là vô cùng quan trọng vì những lý do sau: Kiến thức và kỹ năng của môn Toán được sử dụng rộng rãi trong cuộc sống hàng ngày của mọi người lao động. Toán học giúp học sinh hiểu được các mối quan hệ về lượng và không gian trong thế giới thực, từ đó giúp học sinh có cách nhận thức một số khía cạnh của môi trường và làm việc hiệu quả. Toán học góp phần quan trọng trong việc hình thành phương pháp tư duy, phương pháp lập luận và phương pháp giải quyết vấn đề, góp phần phát triển trí tuệ, tính độc lập, sáng tạo và rèn luyện phẩm chất của học sinh lao động mới

Việc dạy giải toán ở Tiểu học là một trong những nội dung trong chương trình môn Toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh tiếp thu và vận dụng những kiến thức về Toán, được rèn luyện kĩ năng thực hành với những yêu cầu được thể hiện một cách đa dạng phong phú. Dạy học Toán tạo điều kiện để rèn luyện và phát triển các kỹ năng tư duy, cũng như sở hữu năng lực và phẩm chất cho học sinh.

Thực tế cho thấy, chất lượng môn toán nói chung, môn toán lớp 3 nói riêng tuy có nhiều kết quả khả quan nhưng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ của bộ môn, vị trí toán học lớp ba trong chương trình giảng dạy. Kỹ năng giải toán nói chung của học sinh lớp Ba nói chung được đặc biệt quan tâm. Vì vậy tôi luôn suy nghĩ: làm thế nào để có thể giúp học sinh nắm vững kiến ​​thức và vận dụng vào giải toán, giúp nâng cao chất lượng học tập môn Toán của học sinh lớp 3, giúp các em giải toán có trí tuệ cao, kỷ luật và hứng thú học tập.

Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có liên quan tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn chính là ở chỗ làm thế nào để bỏ đi những yếu tố ẩn chứa bản chất toán học của bài toán, hay nói cách khác là làm thế nào để chỉ ra mối quan hệ giữa các yếu tố toán học có trong bài toán và tìm ra các phương pháp tính toán thích hợp để trả lời bài toán.

Trong dạy học và theo dõi chất lượng học tập môn Toán có lời văn của lớp mình, hầu hết học sinh gặp khó khăn, tâm lý e ngại, ngại đọc toàn bộ đề toán. Học sinh vất vả với môn toán. Sắp xếp các ngày vào đầu bài học. Học sinh thấy khó ở việc sắp xếp các dữ kiện đầu bài cho, từ những dữ kiện đó chưa hình dung ra cần phải thực hiện như thế nào để giải được bài toán đúng (thường gặp ở giải toán bằng hai phép tính).

Việc tóm tắt, tìm hiểu đề còn nhiều khó khăn, bất tiện, máy móc. Các bài toán tính diện tích, chu vi hình chữ nhật, hình vuông còn nhiều lúng túng. Một số em còn nhút nhát, tự ti, thiếu tập trung khi đọc đề toán, khi cô giáo khai thác bài toán cho biết gì, bài toán hỏi gì dẫn đến chưa hiểu bài toán cho biết và yêu cầu gì dẫn đến không hiểu đề bài nói gì và yêu cầu gì? Không biết cách giải quyết vấn đề một cách hợp lý, trình bày bài chưa rõ ràng, lời giải chưa rõ ràng, chưa đủ ý.

Các em chưa chú ý đến khâu kiểm tra, thường cho rằng bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số của bài. Là một giáo viên, chịu trách nhiệm trực tiếp giảng dạy và giảng dạy, trong quá trình giảng dạy ở lớp 3, bằng kinh nghiệm của bản thân và học hỏi, chia sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp, tôi đã xây dựng đề tài: “Một số bước giúp học sinh giải toán có lời văn lớp 3” nhằm nâng cao chất lượng dạy học - góp phần nâng cao chất lượng học tập của nhà trường nói chung và cho học sinh lớp 3 nói riêng. Chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu, rất mong được sự đóng góp ý kiến ​​của Ban cố vấn khoa học và các bạn đồng nghiệp.

docx 17 trang Trúc Vân 02/12/2024 300
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 học tốt dạng toán có lời văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 học tốt dạng toán có lời văn

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 học tốt dạng toán có lời văn
 của học sinh lớp Ba nói chung được đặc biệt quan tâm. Vì vậy tôi luôn suy nghĩ: làm 
thế nào để có thể giúp học sinh nắm vững kiến thức và vận dụng vào giải toán, giúp 
nâng cao chất lượng học tập môn Toán của học sinh lớp 3, giúp các em giải toán có trí 
tuệ cao, kỷ luật và hứng thú học tập. 
 Giải toán có lời văn thực chất là những bài toán thực tế, nội dung bài toán được 
thông qua những câu văn nói về những quan hệ, tương quan và phụ thuộc, có liên quan 
tới cuộc sống thường xảy ra hàng ngày. Cái khó của bài toán có lời văn chính là ở chỗ 
làm thế nào để bỏ đi những yếu tố ẩn chứa bản chất toán học của bài toán, hay nói cách 
khác là làm thế nào để chỉ ra mối quan hệ giữa các yếu tố toán học có trong bài toán và 
tìm ra các phương pháp tính toán thích hợp để trả lời bài toán. 
 Trong dạy học và theo dõi chất lượng học tập môn Toán có lời văn của lớp mình, 
hầu hết học sinh gặp khó khăn, tâm lý e ngại, ngại đọc toàn bộ đề toán. Học sinh vất 
vả với môn toán. Sắp xếp các ngày vào đầu bài học. Học sinh thấy khó ở việc sắp xếp 
các dữ kiện đầu bài cho, từ những dữ kiện đó chưa hình dung ra cần phải thực hiện như 
thế nào để giải được bài toán đúng (thường gặp ở giải toán bằng hai phép tính).
 Việc tóm tắt, tìm hiểu đề còn nhiều khó khăn, bất tiện, máy móc. Các bài toán 
tính diện tích, chu vi hình chữ nhật, hình vuông còn nhiều lúng túng. Một số em còn 
nhút nhát, tự ti, thiếu tập trung khi đọc đề toán, khi cô giáo khai thác bài toán cho biết 
gì, bài toán hỏi gì dẫn đến chưa hiểu bài toán cho biết và yêu cầu gì dẫn đến không 
hiểu đề bài nói gì và yêu cầu gì? Không biết cách giải quyết vấn đề một cách hợp lý, 
trình bày bài chưa rõ ràng, lời giải chưa rõ ràng, chưa đủ ý.
 Các em chưa chú ý đến khâu kiểm tra, thường cho rằng bài toán đã giải xong khi 
tính ra đáp số của bài. Là một giáo viên, chịu trách nhiệm trực tiếp giảng dạy và giảng 
dạy, trong quá trình giảng dạy ở lớp 3, bằng kinh nghiệm của bản thân và học hỏi, chia 
sẻ kinh nghiệm với đồng nghiệp, tôi đã xây dựng đề tài: “Một số bước giúp học sinh 
giải toán có lời văn lớp 3” nhằm nâng cao chất lượng dạy học - góp phần nâng cao 
chất lượng học tập của nhà trường nói chung và cho học sinh lớp 3 nói riêng. Chắc 
chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình nghiên cứu, rất mong được 
sự đóng góp ý kiến của Ban cố vấn khoa học và các bạn đồng nghiệp.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Học sinh lớp 3.
- Giáo viên chủ nhiệm giảng dạy môn toán lớp 3 ở trường Tiểu học.
- Các giải pháp giúp học sinh giải toán lớp 3.
II. NỘI DUNG
1. Mục tiêu của biện pháp
 Đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích nâng cao chất lượng môn Toán lớp 3, 
giúp học sinh tích cực, hứng thú học tập, vận dụng kiến thức toán, kĩ năng thực hành, 
kĩ năng sáng tạo phù hợp với mục tiêu môn Toán ở lớp Ba vào thực tế.
 2 - Nhiều gia đình đi làm ăn xa gửi con cho ông bà nội chăm sóc vì ông bà già yếu không 
lo được cho con cái học hành. 
- Do tâm lý chung của học sinh tiểu học là ham chơi mà không có sự quan tâm của gia 
đình và nhà trường nên các em khó học hiệu quả.
b. Thực trạng của lớp:
 Năm học 2021-2022, tôi được phân công chủ nhiệm lớp 3B. 100% học sinh đến 
trường đúng độ tuổi, sức khoẻ tốt, nề nếp, ham học hỏi. Các em ngoan ngoãn và tôn 
trọng giáo viên, yêu thích công việc, tham gia đầy đủ các hoạt động ngoại khóa và các 
phong trào thi đua. Các em đều là học sinh được tiếp cận với chương trình tiểu học mới 
nên có nhiều thuận lợi cho giáo viên. Tuy nhiên, qua giảng dạy và trao đổi với các em 
học sinh, tôi nhận thấy: 
- Việc tóm tắt và tìm hiểu đề còn khó khăn đối với một số học sinh trung bình và yếu 
trong lớp 3B. Do kĩ năng đọc hiểu của các em chưa cao, các em có thể đọc hiểu đề một 
cách thụ động, chậm hiểu đề ... 
- Thực tế, trong một tiết học 40 phút, phần dạy kiến thức mới mất nhiều thời gian– 
phần bài tập hầu hết là ở cuối bài nên thời gian để luyện nêu đề, nêu câu trả lời không 
được nhiều mà học sinh chỉ thành thạo việc đọc đề toán.
+ Mặc dù môn toán gần như đạt 100% từ trung bình trở lên nhưng số điểm khá không 
nhiều, kết quả đạt yêu cầu chủ yếu ở phần toán dễ, học sinh mắc nhiều lỗi ở phần toán 
trong thực hành và trong bài kiểm tra ảnh hưởng đến chất lượng môn toán.
2.3. Nguyên nhân:
 Qua khảo sát vừa rồi tôi thấy nhiều học sinh chưa tìm hiểu kĩ đề toán, nhiều học 
sinh trình độ tiếng Việt hạn chế nên khó liên hệ số liệu bài toán. Một số học sinh không 
rõ hệ thống các bài toán đơn giản đã học, dẫn đến hiểu nhầm mối quan hệ logic giữa 
các bài toán này. Học sinh thiếu tự tin trong việc tìm ra giải pháp và hạn chế trong việc 
lựa chọn giải pháp. Học sinh bỏ qua giai đoạn kiểm tra và thường cho rằng việc tính 
toán đáp án đã giải quyết được vấn đề. Trong giờ học toán, giáo viên còn bỏ sót một 
số bước giải toán như: tìm hiểu đề, kiểm tra cách giải để nhiều học sinh mắc phải những 
sai lầm không đáng có. Cô giáo không quan tâm. Rèn luyện kỹ năng giải toán cho học 
sinh.
 Đây là những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giải toán 
của học sinh. Việc khắc phục những nguyên nhân trên có ý nghĩa hết sức quan trọng 
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học đạt mục tiêu, đào tạo ra những con người 
mới năng động, tự chủ và sáng tạo. Để làm tốt hơn nữa, giúp học sinh hứng thú học tập 
và nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường, tôi đã mạnh dạn cải tiến nội dung 
và phương pháp dạy học như sau:
3. Nội dung biện pháp
3.1. Giúp HS phân biệt rõ các dạng toán và chuẩn bị cho việc giải toán.
3.1.1. Mục tiêu.
 4 thạo cách giải các bài toán đơn giản, giáo viên có thể gợi ý những học sinh giỏi sử dụng 
từ ngữ thay cho dữ kiện (trong các bài có cấu trúc giống nhau), diễn đạt các cấu trúc 
toán học, để củng cố cách sử dụng các công cụ và thủ thuật toán học giống nhau. Giải 
quyết vấn đề, sắp xếp các công việc đơn giản yêu cầu học sinh sử dụng các phép toán 
ngược trong giải toán sẽ giúp các em nâng cao và củng cố nhận thức về mối quan hệ 
giữa các phép toán nghịch đảo.
 Sử dụng tranh ảnh hoặc sơ đồ để minh họa các điều kiện của bài toán đặc biệt 
hữu ích cho học sinh lớp ba và học sinh tiểu học nói chung. Tuy nhiên, các hàm ý của 
nó (để hỗ trợ suy luận) phải được hiểu rõ ràng trong việc giải toán. Đối với những bài 
toán đơn giản hoặc những lời giải thành thạo, cần chú ý phát huy trí tưởng tượng của 
học sinh, thay đổi chỗ dựa trực quan bằng hình ảnh trong đầu, vừa giúp học sinh mở 
rộng hiểu biết, vừa thúc đẩy quá trình suy nghĩ của mình.
Ví dụ: Dạng toám tìm một trong các phần bằng nhau của một số.
 Đây là dạng toán đầu tiên học sinh sử dụng biểu đồ đoạn thẳng để tóm tắt. Vì 
vậy, cần dạy học sinh vẽ biểu đồ đoạn thẳng bằng cách thể hiện rõ ràng để học sinh 
hiểu được đoạn thẳng cần được chia thành các đoạn thẳng bằng nhau, mỗi đoạn là một 
phần tương ứng.
 Bài toán 1: (SGK Trang 26): Một cửa hàng có 40m vải xanh và đã bán được 1/5 
số vải đó. Hỏi cửa hàng đó đã bán mấy mét vải xanh?
 Yêu cầu hs phân tích bài toán: 
 Học sinh phải hiểu được 1/5 chính là 40m vải chia thành 5 phần bằng nhau, mỗi 
phần đó là 1/5 số vải.Vậy cứ hễ gặp dạng toán tìm một phần mấy các em biết mình 
phải đi tìm 1 phần bằng cách sử dụng phép tính chia.
3.2. Giúp học sinh nắm được quá trình giải toán
3.2.1. Mục tiêu.
 Khó khăn trong việc giải các bài toán đố là bỏ đi những yếu tố lời văn che giấu 
bản chất toán học của vấn đề. Nói cách khác, làm thế nào để đánh dấu các mối quan hệ 
giữa các yếu tố toán học có trong bài toán và việc tìm kiếm các giải pháp tính toán phù 
hợp, từ đó bạn có thể tìm ra câu trả lời cho bài toán. Vì vậy, giáo viên cần giúp học 
sinh nắm vững quy trình giải toán. 
3.2.2. Cách tiến hành.
 Quá trình này thường được tiến hành theo các bước như sau :
- Tìm hiểu nội dung bài toán.
- Tìm cách giải bài toán.
- Thực hiện cách giải bài toán.
- Kiểm tra, đánh giá kết quả.
 Thực tế trong học giải toán, tính chính xác của các bước giải toán trên đã được 
khẳng định. Để học sinh có thói quen và kĩ năng sử dụng sơ đồ, đòi hỏi học sinh phải 
nghiên cứu từng bước và thực hiện tốt quá trình giải bài tập.
 6 b. Hướng dẫn học sinh tìm cách giải bài toán.
 Từ việc giải một bài toán đơn đến bài toán hợp, học sinh phải giải một bài khó 
là phân tích bài toán hợp thành các bài toán đơn giản. Về phát triển dạy học, cần dạy 
cho các em những phương pháp tổng hợp và những thủ thuật cơ bản để giải một số bài 
toán thường gặp với các mức độ phức tạp khác nhau. Để giải quyết vấn đề này, giáo 
viên cần giúp học sinh liên hệ với một bài toán mà các em đã biết cách giải. Khi giải 
một bài toán mới, học sinh có thể đề cập đến một bài toán mà các em đã biết cách giải, 
hoặc các em có thể tham khảo các hoạt động thực tế cụ thể mà các em đã biết cách giải. 
Để giải quyết một nhiệm vụ cụ thể, bạn thậm chí có thể có một giải pháp được đề xuất.
 Ví dụ 1: Bài toán 2 phần a ( SGK toán 3 trang 38 )
Một cửa hàng buổi sáng bán được 60 lít dầu, số lít dầu bán được trong buổi chiều giảm 
đi 3 lần so với buổi sáng. Hỏi buổi chiều cửa hàng đó bán được bao nhiêu lít dầu ?
 Khi giải bài toán này qua phân tích hai điều kiện của bài toán và tập trung chú ý 
vào hai điều kiện, các em dẫn tới những bài toán đã học về: "Tìm một phần mấy của 
một số" để tìm số lít dầu bán được vào buổi chiều (60 : 3 = 20 l.)
 Ví dụ 2: Bài toán 2 (SGK toán 3 trang 88)
 Người ta uốn một đoạn dây thép vừa đủ thành một hình vuông cạnh 10cm. Tính 
độ dài đoạn dây được.
 Đối với bài toán trên, các em cần phân tích các dữ kiện đã biết, kết hợp quan sát 
giáo viên thao tác trực quan trên mô hình để nhận thấy độ dài đoạn dây chính là chu vi 
hình vuông được tạo thành. Từ đó các em biết dẫn về bài toán đã biết “Chu vi hình 
vuông” để tìm được độ dài đoạn dây thép (10 x 4 = 40 cm)
 Ngoài ra, việc quan sát và dự đoán trong quá trình tìm lời giải cũng rất quan 
trọng. Quan sát dữ kiện đóng một vai trò quan trọng trong việc tìm ra giải pháp cho 
vấn đề. Ngoài ra, trong SGK Toán 3, ngoài hầu hết các bài toán dành cho học sinh 
trung bình, có một số bài toán mà dữ kiện thường phức tạp hơn, đôi khi không được 
đưa ra một cách trực tiếp hoặc tường minh. Khi cần tìm “nút thắt” để tập trung tháo dỡ, 
nghĩa là bạn đang lựa chọn cách tiếp cận phù hợp. Để làm được điều này, bạn cần phải 
biến đổi bài toán, với một số cách biến đổi thường được sử dụng ở tiểu học.
 Ví dụ : Bài toán 3 (SGK toán 3 trang 88)
 Mỗi viên gạch hình vuông có cạnh 20cm. Tính chu vi hình chữ nhật ghép bời 3 
viên gạch như thế.
 Đây là bài tập vận dụng của bài “Chu vi hình vuông” nên không ít học sinh máy 
móc đã vận dụng quy tắc tính chu vi hình vuông vừa học để tìm chu vi một viên gạch, 
sau đó lấy chu vi một viên gạch gấp lên 3 lần để ra chu vi hình chữ nhật. Và các em 
không hề nhận ra phương pháp giải của mình là sai lầm.
 Để giải quyết vấn đề này, theo tôi “nút thắt” cần tháo gỡ chính là giúp học sinh 
so sánh tìm ra điểm khác nhau giữa chu vi hình chữ nhật được ghép từ 3 viên gạch hình 
vuông và tổng chu vi của 3 viên gạch hình vuông. Giáo viên cho học sinh chỉ trên hình 
 8 hợp, vừa sức với trẻ em là điều cần được chú ý. Giải quyết vấn đề bao gồm việc thực 
hiện các phép tính trên phương án giải quyết vấn đề và trình bày giải pháp. Theo 
chương trình toán hiện hành, mô hình giải toán lớp 3, các phép tính, biểu thức đều phải 
kèm theo lời giải và ghi đáp án ở cuối bài.
 Ví dụ 1: Bài 3 (SGK Toán 3 trang 32)
 Mỗi lọ hoa có 7 bông hoa. Hỏi 5 lọ hoa như thế có bao nhiêu bông hoa ?
 Bài giải
 Năm lọ hoa như thế có số bông hoa là:
 7 x 5 = 35 (bông hoa)
 Đáp số: 35 bông hoa.
 Ví dụ 2 : Bài 3 (SGK toán trang 106)
 Một đội trồng cây đã trồng được 948 cây, sau đó trồng thêm được bằng 1/3 số 
cây đã trồng. Hỏi đội đó đã trồng được tất cả bao nhiêu cây ?
 Bài giải
 Số cây đội đó trồng thêm là:
 948 : 3 = 316 (cây)
 Đội đó trồng được tất cả số cây là:
 948 + 316 = 1 264 (cây)
 Đáp số: 1 264 cây
d. Hướng dẫn học sinh kiểm tra, đánh giá kết quả
 Học sinh thường nghĩ rằng bài toán đã được giải quyết khi họ tính toán câu trả 
lời hoặc tìm câu trả lời cho câu hỏi. Nhưng không phải học sinh đều bị thuyết phục về 
kết quả, chỉ cần giáo viên hỏi lại, học sinh sẽ bối rối và nghi ngờ giải pháp của họ. Vì 
vậy, việc kiểm tra lời giải và kết quả là điều kiện tiên quyết không thể thiếu để giải 
toán. Điều này sẽ giúp học sinh biết kết quả cũng như cách giải quyết vấn đề của mình 
có đúng và phù hợp không. Xem xét và đánh giá ách giải bài toán nên trở thành thói 
quen của học sinh từ cấp tiểu học trở lên. 
 Ở lớp 3, giáo viên cần luyện tập cho các em học sinh biết cách nhìn lại tổng thể 
vấn đề, phương pháp và thủ thuật đã sử dụng (yêu cầu cao hơn ở lớp 1, lớp 2) để vừa 
kiểm chứng vừa nắm vững cách giải. Học sinh có thói quen xem lại mức độ đầy đủ của 
giải pháp đã chọn và suy nghĩ tìm những chỗ còn chưa hợp lý để tìm cách cải thiện, 
đặc biệt là học sinh tự đặt câu hỏi “Có thể làm cách khác được không?”. Mặt khác, việc 
tìm kiếm một giải pháp khác giúp học sinh dễ dàng phát triển tư duy linh hoạt, sáng 
tạo và độc lập.
* Các hình thức thực hiện kiểm tra cách giải bài toán:
- Thực hiện các phép tính thích hợp giữa các số tìm được trong quá trình giải với các 
số đã cho. 
- Tạo ra một vấn đề đối lập với vấn đề đã cho và sau đó giải quyết nó. 
- Một cách khác để giải quyết vấn đề. 
 10 Sau khi kiểm tra, học sinh có thể đưa ra những nhận xét, góp ý phù hợp để giúp bạn 
mình tiến bộ hơn, hoặc lắng nghe những ý kiến hay để các bạn học hỏi.
4. Cách thức thực hiện
4.1. Trao đổi với phụ huynh – Thống nhất biện pháp giáo dục.
4.1.1. Mục tiêu. 
 Chúng ta đều biết rằng học sinh tiểu học nói chung và học sinh lớp 3 nói riêng 
vẫn phụ thuộc rất nhiều vào sự quan tâm của cha mẹ, thầy cô. Đa số các em chưa tích 
cực trong học tập. Vì vậy, việc giáo dục cho học sinh ý thức học tập tích cực là một 
yếu tố không kém phần quan trọng giúp các em học tập tốt hơn.
4.1.2. Cách tiến hành.
 Trong một lớp học, hiệu quả học tập của học sinh không đồng đều, ý thức học 
tập không đồng đều. Để thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” của Ngành giáo dục 
và giúp các bậc phụ huynh có những bước đi đúng đắn trong việc giáo dục con em 
mình, tôi đã mạnh dạn trao đổi về mục tiêu của lớp và những yêu cầu cần thiết trong 
học tập với phụ huynh học sinh, như : Mua Đủ Sách Và Đồ Dùng, Cách Dạy Trẻ Học 
Ở Nhà. Đặc biệt là đối với cha mẹ, vào buổi buổi tối, hãy cố gắng dành ít thời gian cho 
bạn bè hơn một chút, tắt (tắt đài, tắt tivi) để ghi nhớ và chú ý đến việc học của con 
cái Tôi mừng vì hầu hết các bậc phụ huynh đều đón tiếp nồng nhiệt các biện pháp 
trên như vậy là do lâu nay các bậc cha mẹ vẫn còn đặt nặng vấn đề dạy con. Đặc biệt, 
trong phần bài tập của sách toán, tôi hướng dẫn các bậc phụ huynh cách dạy con làm 
bài toán có lời văn, luyện nói, trả lời thêm ...
 Tuy nhiên, tại buổi họp phụ huynh vẫn có một số gia đình vắng mặt vì có việc 
đột xuất, chưa ý thức hết tầm quan trọng của việc học và vì điều kiện gia đình khó khăn 
nên đã phó mặc việc học của trẻ em đối với giáo viên, đối với trường học. Đối với 
những phụ huynh vắng mặt này, tôi cố gắng gặp gỡ và trao đổi tại nhà. Điều này bao 
gồm cả những gia đình đang bối rối và không còn biết cách dạy con cái của họ. Đối 
với những em này, tôi phải hướng dẫn thêm trên lớp để các em tự học ở nhà. 
4.2. Rèn kĩ năng giải toán cho học sinh
4.2.1. Mục tiêu. 
 Rèn luyện kỹ năng giải toán cho học sinh sẽ giúp phát triển kỹ năng khái quát 
hóa, giải toán và rèn luyện tính sáng tạo trong giờ học cho học sinh.
4.2.2. Cách tiến hành.
 Có thể rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề cho học sinh theo các cách sau: 
a. Giải các bài toán nâng dần mức độ phức tạp của mối quan hệ giữa số đã cho và số 
phải tìm hoặc điều kiện của bài toán. 
b. Giải quyết các bài toánbằng nhiều giải pháp khác nhau. 
c. Khám phá các bài toán với dữ liệu bị thiếu và thừa hoặc điều kiện 
d. Tạo và chuyển đổi bài toán, hoạt động này có thể được thực hiện theo những cách 
sau: 
 12

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_3_h.docx