Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 2 Trường TH Phạm Hùng (Toán 2, bộ sách Chân trời sáng tạo)
- Ở Tiểu học, môn Toán là môn học có vai trò quan trọng góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Đặc biệt ở lớp 2, môn Toán giữ vai trò hết sức quan trọng, bởi năm nay là năm thứ hai các em học tập theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Mục tiêu của giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay là “Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
- Học sinh Tiểu học là thế hệ mầm non của đất nước cần phải được quan tâm, chăm sóc và giáo dục cả về thể chất cũng như trí tuệ. Để các em có thể trở thành những người chủ tương lai của đất nước. Nhằm đáp ứng nhu cầu kịp thời đặt ra như trên thì việc nâng cao chất lượng dạy và học là yêu cầu đặt ra cho ngành giáo dục, đặc biệt là những giáo viên chúng ta trực tiếp giáo dục các em. Chúng ta phải làm thế nào để cho các em phát triển một cách toàn diện, nắm vững kiến thức và biết vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống một cách tự tin, linh hoạt, năng động và sáng tạo.
- Ở bậc Tiểu học, học sinh học rất nhiều môn học trong đó có môn Toán. Môn Toán lớp Hai giúp học sinh có một số kiến thức cơ bản thiết thực, hình thành và rèn luyện các kỹ năng thực hành, biết phát hiện tìm tòi và tự chiếm lĩnh kiến thức mới, chăm chỉ, tự tin, hứng thú trong học tập. Ở lớp 2 học sinh đã học nhiều dạng toán có lời văn. Giải toán rất quan trọng, nó xuyên suốt trong chương trình học toán, là nền tảng để học sinh học tiếp các lớp trên.
- Qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy, đây là dạng toán học sinh còn lúng túng khi xác định đề toán cũng như tìm cách giải, lời giải đối với các bài toán có lời văn. Chính vì vậy, tôi chọn sáng kiến “Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2C - Trường Tiểu học Phạm Hùng” để nghiên cứu và thực hiện trong năm học 2022-2023.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 2 Trường TH Phạm Hùng (Toán 2, bộ sách Chân trời sáng tạo)
Tôi triển khai và thực hiện sáng kiến này trong tập thể lớp 2C trường Tiểu học Phạm Hùng. Bên cạnh đó, bản thân tôi nhân rộng ra toàn trường và sang các xã bạn để giúp cho các em học tập tốt hơn cho những năm học tiếp theo. 4. Tính mới của sáng kiến Thông qua việc dạy và học rèn luyện các thao tác tư duy, từ đó giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức, có chuyển biến rõ rệt, các em nắm vững cách giải các dạng toán của bài toán có lời văn một cách chắc chắn. Bên cạnh đó, giúp các em tự tin hơn và yêu thích hơn trong tiết học toán. Từ đó, nâng cao dần chất lượng dạy và học. 5. Kết quả, hiệu quả mang lại Sau thời gian áp dụng sáng kiến tôi nhận thấy các em đã tiến bộ sau mỗi giai đoạn, cụ thể như sau: Giai đoạn Tháng Số Cuối HKI Nội dung giữa tháng 9 03/2022 lượng khảo sát Đạt Đạt Đạt học sinh SL TL % SL TL% SL TL% Thực hiện đúng 5/33 15,1% 21/33 63,6% 29/33 87,9% lời giải bài toán Thực hiện đúng phép tính và đáp 15/33 45,5% 27/33 81,8% 31/33 93,9% số 33 Giải đúng hoàn 7/33 21,2% 26/33 78,8% 32/33 96,7% toàn bài toán 6. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến Sáng kiến “Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2C của trường TH Phạm Hùng”. Được áp dụng cho tất cả giáo viên lớp Hai trong 2 I. MỞ ĐẦU 1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2C - Trường Tiểu học Phạm Hùng”. 2. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến 2.1. Sự cần thiết của việc thực hiện sáng kiến - Ở Tiểu học, môn Toán là môn học có vai trò quan trọng góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Đặc biệt ở lớp 2, môn Toán giữ vai trò hết sức quan trọng, bởi năm nay là năm thứ hai các em học tập theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Mục tiêu của giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay là “Giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. - Học sinh Tiểu học là thế hệ mầm non của đất nước cần phải được quan tâm, chăm sóc và giáo dục cả về thể chất cũng như trí tuệ. Để các em có thể trở thành những người chủ tương lai của đất nước. Nhằm đáp ứng nhu cầu kịp thời đặt ra như trên thì việc nâng cao chất lượng dạy và học là yêu cầu đặt ra cho ngành giáo dục, đặc biệt là những giáo viên chúng ta trực tiếp giáo dục các em. Chúng ta phải làm thế nào để cho các em phát triển một cách toàn diện, nắm vững kiến thức và biết vận dụng kiến thức vào thực tế cuộc sống một cách tự tin, linh hoạt, năng động và sáng tạo. - Ở bậc Tiểu học, học sinh học rất nhiều môn học trong đó có môn Toán. Môn Toán lớp Hai giúp học sinh có một số kiến thức cơ bản thiết thực, hình thành và rèn luyện các kỹ năng thực hành, biết phát hiện tìm tòi và tự chiếm lĩnh kiến thức mới, chăm chỉ, tự tin, hứng thú trong học tập. Ở lớp 2 học sinh đã học nhiều dạng toán có lời văn. Giải toán rất quan trọng, nó xuyên suốt trong chương trình học toán, là nền tảng để học sinh học tiếp các lớp trên. 4 5.3. Phương pháp điều tra Giáo viên đặt vấn đề để nắm được mức độ học của từng học sinh. Tôi đã tiến hành dự giờ, điều tra học sinh, giáo viên chủ nhiệm đang trực tiếp giảng dạy lớp 2 của Trường Tiểu học Phạm Hùng nhằm có được kết quả đối chiếu về sự tiến bộ của học sinh trong việc học giải toán có lời văn. 5.4. Phương pháp thống kê Phương pháp này được thực hiện để thu thập thông tin về việc dạy và học của giáo viên và học sinh phần giải toán có lời văn, nhằm mang lại hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. 5.5. Phương pháp nghiên cứu thực tế sản phẩm - Dự giờ, trao đổi ý kiến với đồng nghiệp về nội dung các bài dạy. - Tổng kết rút kinh nghiệm trong quá trình dạy học. * Ngoài ra, bản thân tôi còn áp dụng một số biện pháp để áp dụng vào thực tế tiết dạy môn Toán như sau: - Phương pháp hỏi đáp. - Phương pháp trực quan. - Phương pháp thảo luận nhóm. - Phương pháp gợi mở. - Phương pháp đặt vấn đề. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận 1.1. Các văn bản chỉ đạo có liên quan đến sáng kiến Hiện nay, có rất nhiều các văn bản chỉ đạo của trung ương, của ngành nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong thời kỳ mới. Tôi đã tìm hiểu một số văn bản có liên quan đến sáng kiến cụ thể như sau: - Thông tư số 32/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành chương trình Giáo dục phổ thông 2018. - Thông tư số 28/2020/TT-BGD ĐT ngày 04/9/2020 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Điều lệ trường tiểu học. 6 - Coi giáo dục là quốc sách hàng đầu; giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, Nhà nước và của toàn dân; phát triển giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ khoa học, công nghệ, thực hiện công bằng trong giáo dục và đào tạo; Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa dạng hoá các loại hình trường và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục. - Mọi tổ chức, gia đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh an toàn. - Giáo dục trong thời kỳ hội nhập quốc tế phải bảo đảm phát triển bền vững, không ngừng nâng cao chất lượng, phát huy tối đa nội lực, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước tiếp cận nền giáo dục tiên tiến. Mở rộng hợp tác đa phương gắn với việc tăng cường công tác quản lý nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân về giáo dục và đào tạo. 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực tiễn vấn đề nghiên cứu - Nội dung dạy học mạch “giải toán” được cấu trúc hợp lý, sắp xếp đan xen với các mạch kiến thức khác, phù hợp với từng giai đoạn của học sinh. Giải toán chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Nội dung các bài giải toán có văn thường nêu bật ý nghĩa phép tính: Tìm một số hạng, tìm số bị trừ, tìm số trừ, tìm số bị chia, tìm số chia. Mặc dù các bài toán không phức tạp là những bài toán cơ bản có một lời giải và một phép tính. - Tôi nhận thấy đa số học sinh nhất là học sinh chậm kĩ năng không thích thú trong giờ học toán có nhiều nguyên nhân trong đó, một số em kĩ năng đọc trơn chưa tốt nên chưa biết đặt lời giải bài toán, các em chưa cẩn thận trong tính toán nên kết quả tính chưa chính xác. Trình độ học sinh trong lớp không đồng đều. Nhiều học sinh đọc đề chưa trôi chảy. Nhiều học sinh không biết phân tích đề, không biết yêu cầu của đề là gì. Một số học sinh chưa hiểu được cách ghi lời 8 thực hiện những giải pháp đột phá và lâu dài nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo. - Đầu năm học 2022-2023, tôi được Ban giám hiệu nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 2C. Lớp tôi được quản lý như sau: + Tổng số học sinh: 33 em + Học sinh nữ: 16 em Bản thân tôi làm tốt công tác chủ nhiệm thì ngay từ đầu năm tôi đã tiến hành thống kê, tìm hiểu một số thuận lợi và khó khăn của học sinh ở lớp để từ đó có những phương hướng, việc làm cụ thể để giáo dục học sinh tốt hơn. * Thuận lợi: - Được sự chỉ đạo, quan tâm, giúp đỡ của các ban, ngành, các tổ chức, đoàn thể trong và ngoài nhà trường. Bản thân tôi được nhà trường phân công tập huấn thay sách lớp 2, phương pháp giáo dục và chuẩn kiến thức kỹ năng phù hợp với chương trình đổi mới giáo dục phổ thông 2018. - Đa số các em tham gia lớp học đầy đủ, các em rất ngoan, biết vâng lời thầy cô giáo, tỉ lệ đi học chuyên cần tương đối cao. Chất lượng học tập của lớp tương đối đồng đều. - Hầu hết học sinh trong lớp cũng rất mạnh dạn, tích cực phát biểu. - Tỉ lệ phụ huynh quan tâm đến việc học tập của con em mình cao, thường xuyên liên lạc trao đổi tình hình học tập của các em với giáo viên chủ nhiệm qua hình thức: zalo, điện thoại, trực tiếp... * Khó khăn: - Một số học sinh trong lớp do các em đọc, viết còn chậm dẫn đến các em đọc chưa kỹ yêu cầu của đề bài nên tính toán và giải toán còn hạn chế, các thao tác còn chậm, còn rụt rè, nhút nhát. nên việc tham gia vào giờ học chưa cao. - Đôi lúc giáo viên chưa chú trọng xây dựng các bài tập dành cho từng đối tượng. - Phụ huynh học sinh không có thời gian kèm cặp cho học sinh nên việc việc giải toán, các dạng toán của bài toán có văn còn hạn chế. 10 3. Nội dung vấn đề 3.1. Vấn đề đặt ra Từ việc khảo sát qua thực tế đầu năm tôi đưa ra một số vấn đề để nghiên cứu và giải quyết như sau: - Sự chuẩn bị, đầu tư của giáo viên. - Sự chuẩn bị và tinh thần học tập của học sinh. - Các bước giải toán có lời văn. - Sự phối kết hợp giữa giáo viên và cha mẹ học sinh. 3.2. Các giải pháp chứng minh vấn đề được giải quyết 3.2.1. Về sự chuẩn bị, đầu tư của giáo viên - Giáo viên thể hiện được vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học, phải là người tổ chức và hướng dẫn nhằm giúp các em tự tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức. - Trong quá trình giảng dạy, giáo viên thật sự quan tâm đến từng đối tượng học sinh, theo dõi thường xuyên, cụ thể kết quả học tập (trên lớp, làm bài tập ) để từ đó phân loại từng đối tượng học sinh và đưa ra những nội dung, kiến thức phù hợp cho các em. - Giáo viên linh hoạt trong việc tổ chức nhiều hình thức học tập như: đôi bạn cùng tiến, học nhóm, phụ đạo theo nhóm, có phương pháp lấp lỗ hổng kiến thức và rèn kỹ năng cho từng em. - Trong khi soạn bài giáo viên nghiên cứu kỹ nội dung bài, tìm ra những biện pháp và hình thức tổ chức dạy học phù hợp với từng loại toán và từng đối tượng học sinh trong lớp để cho tiết dạy trở nên nhẹ nhàng hơn, tự nhiên và hiệu quả hơn. - Giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, học hỏi đồng nghiệp qua dự giờ cũng như nghiên cứu sách báo, để nâng cao tay nghề, những phương pháp dạy học phù hợp với từng dạng bài, từng đối tượng học sinh trong lớp, phải thật sự xem dạy tốt, dự giờ là để học hỏi chứ không phải chỉ là mang tính chất đối phó. - Dựa vào đặc thù tâm lý học sinh mau chán và tùy theo yêu cầu nội dung từng bài, giáo viên luôn thay đổi không khí tiết học bằng những phương pháp, hình thức tổ chức khác nhau cho tiết học sôi nổi, tạo ra sự hỗ trợ giúp đỡ lẫn 12 tâm, sinh lí khẳng định hoạt động dạy học toán dưới dạng trò chơi rất phù hợp với lứa tuổi Tiểu học. Ngoài việc đưa vào khởi động để thu hút học sinh tham gia vào học tập thì việc đưa vào cuối tiết học nhằm củng cố kiến thức và luyện tập kĩ năng cho học sinh cũng rất cần thiết. Khi được tham gia trò chơi, các em sẽ hứng thú và tích cực trong học tập, giờ học sẽ trở nên sinh động và đạt kết quả cao. Trò chơi còn giúp các em rèn luyện kĩ năng tính toán chính xác, tư duy linh hoạt và tác phong nhanh nhẹn. - Một số trò chơi trong học tập mà tôi đã áp dụng như sau: Hình 1: Trò chơi “Đố vui để học” 14 + Phải biết đọc kỹ đề bài và phân tích đề bài trước khi làm bài, phải xác định được “cái phải tìm”, “cái đã cho” trong mỗi bài toán, mối quan hệ giữa các đại lượng có trong bài toán. + Học sinh phải nắm được các bước giải bài toán có lời văn. + Phải biết trình bày bài giải đầy đủ gồm câu lời giải có phép tính tương ứng và đáp số được viết đúng như quy định. - Ngoài ra, đòi hỏi ở học sinh cần nêu cao tinh thần học tập, tích cực tìm hiểu và tìm ra cách giải bài toán ở từng dạng bài khác nhau. - Giáo viên có thể giúp các em giải một số dạng toán điển hình theo 5 bước đã nêu: Bước đầu học sinh làm quen với dạng toán có lời văn bằng cách điền phép tính thích hợp vào ô vuông và trả lời đúng câu hỏi: + Ví dụ: Bài 8 trang 23 SGK lớp 2, tập 1 (Chân trời sáng tạo). Mẹ mua 10 cái bánh, ba mua thêm 6 cái bánh nữa. Hỏi cả ba và mẹ mua bao nhiêu cái bánh? Bước 1: Tìm hiểu bài toán: Giáo viên gợi ý cho học sinh xác định: Bài toán này thuộc dạng toán gì? (Dạng bài toán về "Thêm" một số đơn vị) Từ nào trong đề bài giúp em nhận biết bài toán về thêm một số đơn vị? (Em nhận biết qua từ “mua thêm”) Yêu cầu chính của bài toán hỏi gì? (Hỏi cả ba và mẹ mua bao nhiêu cái bánh?) Giáo viên hướng dẫn tóm tắt bằng lời như sau: Mẹ mua : 10 cái bánh. Ba mua thêm : 6 cái bánh. Cả ba và mẹ mua:. cái bánh? Bước 2: Tìm cách giải bài toán. Muốn biết cả ba và mẹ mua bao nhiêu cái bánh, các em cần phải biết gì? (Biết số bánh mẹ mua và số bánh ba mua thêm). 16 Ngăn trên có 9 quyển sách. Ngăn dưới có nhiều hơn ngăn trên 3 quyển sách. Hỏi ngăn dưới có bao nhiêu quyển sách? Bước 1: Tìm hiểu bài toán: Giáo viên gợi ý cho học sinh xác định: Bài toán này thuộc dạng toán gì? (Dạng Bài toán về nhiều hơn). Các em nhận biết bài toán về nhiều hơn qua cụm từ nào trong đề bài cho? (Em nhận biết qua cụm từ “Ngăn dưới có nhiều hơn ngăn trên”). Yêu cầu chính của bài toán hỏi gì? (Hỏi ngăn dưới có bao nhiêu quyển sách?). Đề bài cho biết gì? Học sinh xác định và nêu được: Ngăn trên có 9 quyển sách, Ngăn dưới có nhiều hơn ngăn trên 3 quyển sách. Đề bài hỏi gì? Học sinh xác định và nêu được: Hỏi ngăn dưới có bao nhiêu quyển sách? Giáo viên hướng dẫn tóm tắt bằng lời như sau: Ngăn trên : 9 quyển sách. Ngăn dưới có nhiều hơn ngăn trên : 3 quyển sách. Ngăn dưới có :quyển sách? Bước 2: Tìm cách giải bài toán. Muốn biết ngăn dưới có mấy quyển sách, các em cần phải biết gì? (Biết ngăn trên có mấy quyển sách và ngăn dưới có nhiều hơn ngăn trên mấy quyển sách). Vậy đề bài cho các em biết chưa? (Đề bài cho biết rồi: Ngăn trên có 9 quyển sách, Ngăn dưới có nhiều hơn ngăn trên 3 quyển sách). Muốn biết ngăn dưới có mấy quyển sách ta phải làm sao, nêu cách làm? (Cách làm: Lấy số quyển sách ngăn trên có cộng với số quyển sách ngăn dưới có nhiều hơn ngăn trên.) Sau khi học sinh nắm và nêu được cách làm. Giáo viên yêu cầu học sinh nêu câu lời giải, giáo viên khuyến khích học sinh tìm được nhiều câu lời giải đúng cho một bài toán. Chú ý: khi ghi câu lời giải có chữ số thì phải kèm ngay theo đơn vị. (Số quyển sách ngăn dưới có là:, Ngăn dưới có số quyển sách là:,) 18
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giai_toan_co_loi_van.docx