Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm giúp học sinh Lớp 9 trường THCS Thái Hòa – Ba Vì làm tốt kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
Giáo viên Ngữ văn không chỉ là người truyền thụ kiến thức cho học sinh mà còn có vai trò tổ chức, hướng dẫn học sinh tìm tòi, khám phá, hiểu biết để cảm nhận, vận dụng kiến thức, kỹ năng Văn học đúng hướng, đúng cách, tránh suy diễn, áp đặt để học sinh tự cảm nhận cái hay cái đẹp của tác phẩm và bộc lộ được những nhận thức của mình. Dạy- học văn nghị luận có vai trò quan trọng trong nhà trường, bởi kiến thức và kĩ năng được rèn luyện trong quá trình học tập về nghị luận và cách nghị luận không chỉ giúp cho học sinh khả năng làm văn mà có tác dụng hình thành năng lực cả về tư duy và sự thành công trong giao tiếp của các em. Ảnh hưởng của văn nghị luận đạt được không chỉ trong phạm vi môn Ngữ văn mà còn lan tỏa tới tất cả các môn học khác ở trường phổ thông. Cũng như các kiểu văn bản khác, ngoài mục đích văn chương, văn bản nghị luận với những giá trị đặc trưng riêng đã đem lại cho người học những phát triển mà mỗi dạng văn bản tạo ra từ chính giá trị của bản thân tác phẩm. Văn bản nghị luận thuyết phục người đọc, người nghe thông qua hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng và những hình ảnh sinh động gắn với thực tiễn. Vẻ đẹp riêng của văn nghị luận vừa cuốn hút hấp dẫn vừa tạo dòng chảy tư duy mạch lạc chặt chẽ trước các vấn đề chính trị xã hội và cả đời sống nhân sinh.
Nghị luận tác phẩm văn học nói chung, tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) nói riêng là một kiểu bài nghị luận có vị trí quan trọng trong chương trình Tập làm văn lớp 9. Thông qua việc đọc và học tác phẩm văn học trong phần đọc hiểu văn bản, học sinh chẳng những có một vốn khá phong phú về kiến thức văn học (tác phẩm, thể loại…) mà các em còn được nâng cao dần về năng lực cảm thụ, phân tích, bình giá tác phẩm… Khi được học phương pháp nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), học sinh được rèn luyện thêm kĩ năng này một cách có hệ thống, được thực hành từng bước cụ thể chi tiết qua một số đề bài trong sách giáo khoa, đề bài do giáo viên sưu tầm. Hơn thế nữa, khi thi vào Trung học Phổ thông đây là một trong hai dạng đề quan trọng chiếm tới nửa số điểm của đề Văn.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhận thức được tầm quan trọng của kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), tôi đã mạnh dạn đưa ra sáng kiến: Kinh nghiệm giúp học sinh lớp 9 trường THCS Thái Hòa – Ba Vì làm tốt kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích), để rèn luyện cho học sinh trường THCS Thái Hòa đạt kết quả tốt nhất khi làm kiểu bài này.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Kinh nghiệm giúp học sinh Lớp 9 trường THCS Thái Hòa – Ba Vì làm tốt kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
MỤC LỤC I Mở đầu Trang 02 1 Lý do chọn đề tài Trang 02 2 Mục đích nghiên cứu Trang 02 3 Đối tượng nghiên cứu Trang 03 4 Phương pháp nghiên cứu Trang 03 II Nội dung Trang 03 1 Cơ sở lý luận của đề tài Trang 03 2 Thực trạng của vấn đề Trang 03 3 Giải pháp và tổ chức thực hiện Trang 05 a Giải pháp Trang 5 b Các biện pháp thực hiện Trang 05 c Hướng dẫn học sinh các bước làm bài văn nghị Trang 08 luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) và lấy ví dụ mẫu. 4 Kiểm nghiệm Trang 19 III Kết luận và kiến nghị Trang 20 2 - Phương pháp phân tích thực trạng. - Phương pháp chia nhóm đối tượng học sinh. - Phương pháp từ lý thuyết, áp dụng thực hành làm bài. II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận của đề tài: Dạy - học Ngữ văn phải phù hợp với nội dung, đặc điểm của môn học và tâm sinh lí của học sinh.Trong việc rèn luyện các kĩ năng thì kĩ năng làm bài có vai trò đặc biệt quan trọng. Nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) là trình bày những nhận xét, đánh giá của mình về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm hay đoạn trích. Thông thường, cần tập trung vào cốt truyện, nhân vật, sự kiện, chủ đề, nghệ thuật tạo tình huống, xây dựng nhân vật, nghệ thuật tự sự kết hợp với các yếu tố miêu tả, biểu cảm, thuyết minh. Những nhận xét, đánh giá về truyện hoặc đoạn trích phải căn cứ vào văn bản, những hiểu biết về tác phẩm, tác giả; phải xuất phát từ ý nghĩa của cốt truyện, tính cách và số phận của các nhân vật, nghệ thuật dựng truyện của tác giả, từ đó mà người viết bài nghị luận phát hiện và khái quát. Các nhận xét, đánh giá về tác phẩm hoặc đoạn trích trong bài nghị luận cần rõ ràng, đúng đắn, có luận cứ và lập luận thuyết phục. Bài nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) phải có bố cục chặt chẽ, mạch lac, lối văn chuẩn xác, gợi cảm. Kiến thức về văn nghị luận được học bắt đầu từ lớp 7 đến lớp 9 theo một quy trình từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao nhưng trên cơ sở lôgic khoa học. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, phương pháp cơ bản của bộ môn Ngữ văn nói chung thể loại nghị luận nói riêng, tôi đã đề ra yêu cầu, cách thức cụ thể áp dụng trong quá trình dạy học cho học sinh. Học sinh cần kết hợp linh hoạt nhiều phép lập luận như giải thích, chứng minh, phân tích trong bài làm. 2. Thực trạng của vấn đề 2.1.Thuận lợi Bản thân nhiều năm dạy lớp 9 nên tôi có nhiều thuận lợi trong việc nghiên cứu, rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy. Môn Ngữ văn là một trong những môn học chính khóa trong nhà trường THCS, thường được các cấp giáo dục, nhà trường, phụ huynh, học sinh coi trọng. Kiểu bài nghị luận văn học là kiểu bài quan trọng trong phân môn Tập làm văn, chiếm tỉ lệ cao trong các kì thi, kiểm tra định kì, kiểm tra học kì, thi tuyển lên THPT. Bên cạnh đó môn Ngữ văn là một trong hai môn điều kiện để xếp loại học lực của học sinh cuối kì, cuối năm vì thế bắt buộc các em phải nắm kiến thức cơ bản, và quan tâm đến môn Văn. 4 dùng những nhận xét đánh giá trong bài làm của mình... Đứng trước thực trạng đó, tôi đã đề ra một số giải pháp và cách thức thực hiện như sau: 3. Giải pháp và tổ chức thực hiện a. Giải pháp Nghiên cứu kĩ chương trình, nội dung kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) có trong chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THCS ở các lớp . Nghiên cứu kĩ sách giáo viên để nắm được mục tiêu của kiểu bài nghị luận về tác phẩm hoặc đoạn trích. Nghiên cứu các tài liệu tham khảo để đề ra phương pháp cũng như các biện pháp tổ chức cho học sinh trong tiết học kiểu bài nghị luận . Nắm vững lí thuyết kiểu bài, các bước làm bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). Dự giờ trao đổi học tập qua đồng nghiệp. Thiết kế và hướng dẫn học sinh thực hiện các dạng câu hỏi, bài tập phát triển tư duy và rèn luyện kĩ năng, tạo niềm vui hứng khởi, nhu cầu hành động và thái độ tự tin trong học tập cho học sinh; giúp các em phát triển tối đa năng lực, tiềm năng của bản thân, hướng dẫn học sinh có thói quen vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn. b. Các biện pháp thực hiện Biện pháp thứ nhất: Hướng dẫn để học sinh nắm một số kiến thức cơ bản về những tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) đã học trong chương trình Ngữ văn 9 Với biện pháp này, trước khi làm đề, tôi yêu cầu học sinh làm nhanh các ý sau: Tóm tắt ngắn gọn: tên tác giả, tác phẩm, năm sáng tác, thể loại, phương thức biểu đạt, nội dung cơ bản và nghệ thuật tiêu biểu. Có thể cho học sinh lập bảng kiến thức sau: T TênVăn Thể loại, Tác giả Nội dung Nghệ thuật T bản PTBĐ Chuyện Nguyễn - Truyện Qua câu chuyện về cuộc Nghệ thuật người Dữ truyền kì đời và cái chết thương dựng con gái (sống ở - Tự sự tâm của Vũ Nương truyện, Nam thế kỉ kết hợp truyện thể hiện niềm cảm miêu tả 1 Xương XVI) với miêu thương đối với số phận nhân vật, (thế kỉ tả và biểu oan nghiệt của người phụ kết hợp tự XVI), rút cảm nữ Việt Nam dưới chế độ sự với trữ từ phong kiến, đồng thời tình Truyền khẳng định vẻ đẹp truyền kì mạn thống của họ lục 2 Làng Kim Lân Truyện Qua tâm trạng đau xót và Xây dựng 6 + Sử dụng phương thức: Tự sự kết hợp với mêu tả và biểu cảm. + Nội dung: Thể hiện lòng yêu làng quê với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến của người nông dân sau cách mạng (qua phân tích nhân vật ông Hai). + Nghệ thuật: Xây dựng tình huống truyện, nghệ thuật miêu tả tâm lí và ngôn ngữ nhân vật. Với các ý như vậy khi làm bài học sinh sẽ đi vào phần trọng tâm, tránh thiếu hay thừa ý... Biện pháp thứ hai: Yêu cầu học sinh nắm lý thuyết của kiểu bài nghị luận về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích). Qua kinh nghiệm dạy nhiều năm cho tôi thấy rằng: Không thể làm đúng kiểu bài nếu học sinh không nắm được khái niệm. Với kiểu bài này yêu cầu học sinh nắm: thế nào là nghị luận về một tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích) và đây là cách học sinh có thể tìm ra điểm khác biệt với kiểu bài khác. Trước khi cho học sinh làm đề tôi đã đặt một số câu hỏi để kiểm tra khái niệm, yêu cầu của kiểu bài (sách giáo khoa Ngữ văn 9 - tập hai, trang 63). Đây cũng là việc làm rất cần thiết mà nhiều giáo viên thường bỏ qua không hướng dẫn học sinh trình bày. Việc học sinh nắm chắc được lí thuyết giúp các em tránh lạc đề với các kiểu bài khác Sau khi kiểm tra để học sinh nắm chắc lí thuyết về kiểu bài, ngoài những yêu cầu có trong sách giáo khoa, tôi đã lưu ý cho học sinh một số vấn đề sau: - Nhận xét, đánh giá về tác phẩm truyện, phải xuất phát từ giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của tác phẩm được người viết phát hiện và khái quát trong quá trình tiếp cận tác phẩm đó (ví dụ như: tính cách, số phận nhân vật; ý nghĩa cốt truyện; các tình huống nghệ thuật; kết cấu của tác phẩm...). Những nhận xét đánh giá này có thể hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: từ chính những rung động, xúc cảm của mình khi tiếp cận và khám phá tác phẩm; từ những nhận xét đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình văn học về tác phẩm đó Việc phối hợp, dung hòa các điểm nhìn, các ý kiến trên sẽ góp phần làm cho nội dung nhận xét, bình luận về tác phẩm thêm xác đáng, sâu sắc, toàn diện tránh sự suy diễn theo ý chủ quan của người viết. - Các nhận xét đánh giá về tác phẩm truyện được hình thành trong quá trình nghị luận đòi hỏi phải rõ ràng, chính xác, có lập luận thuyết phục. Thông thường, các nhận xét đánh giá ấy được thể hiện thành những luận điểm, các luận điểm được sắp xếp theo một trình tự chặt chẽ lôgíc. Trong từng luận điểm, hệ thống các luận cứ phải đảm bảo, phong phú, đa dạng, tiêu biểu. - Trong quá trình nghị luận về tác phẩm truyện cần có thói quen liên hệ, so sánh, đối chiếu (liên hệ với cuộc đời và phong cách sáng tác của tác giả; liên hệ với hoàn cảnh sáng tác; liên hệ so sánh đối chiếu với các tác phẩm khác cùng đề tài, cùng chủ đề, cùng tác giả - Lời văn trong tác phẩm truyện phải linh hoạt, vừa khúc chiết, chặt chẽ để đảm bảo đặc trưng của văn nghị luận lại vừa phải có sự uyển chuyển gợi cảm cho phù hợp với đối tượng nghị luận. * Với biện pháp này học sinh sẽ nắm được một cách đầy đủ và đúng bản chất của kiểu bài. 8 của người viết về nhân vật, tác phẩm hay một khía cạnh của nhân vật, tác phẩm đó (không nhất thiết phải phân tích đầy đủ từng đặc điểm của nhân vật hoặc đầy đủ giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, có thể chọn những gì mình cảm nhận sâu sắc nhất mà thôi). Ví dụ đề bài: Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn: "Làng" của Kim Lân, giáo viên có thể hướng học sinh cảm nhận, suy nghĩ về nét nổi bật của nhân vật này là tình yêu làng hòa quyện với lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến được bộc lộ trong tình huống nào? Tình cảm ấy có đặc điểm gì ở hoàn cảnh cụ thể lúc bấy giờ? (thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp?) Những chi tiết nghệ thuật nào chứng tỏ một cách sinh động, thú vị tình yêu làng và lòng yêu nước ấy (về tâm trạng, cử chỉ, lời nói). Trong khi đó yêu cầu của dạng đề phân tích (phân tích nhân vật, tác phẩm hay một khía cạnh về nhân vật, tác phẩm) là yêu cầu người viết tìm hiểu, đánh giá và nhận xét đầy đủ từng đặc điểm nhân vật, từng giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm (dạng đề này nghiêng về phương pháp). Trong nội dung bài có những yêu cầu gì thì đòi hỏi học sinh phải trình bày đầy đủ các nội dung đó Đối với dạng đề 3: Phân tích để nêu ra nhận xét hoặc làm sáng tỏ một vấn đề, người Giáo viên phải biết tích hợp các kiến thức chương trình Tập làm văn ở các lớp dưới để nâng cao yêu cầu giải quyết đề bài văn dạng này. Ví dụ đối với đề bài: “Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn: "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng (SGK Ngữ văn 9 tr 65), học sinh không phải đơn thuần tập trung phân tích những biểu hiện cụ thể tình cảm cha con của hai nhân vật ông Sáu và bé Thu mà còn phải trình bày những cảm nhận của mình về tình cảm cha con hết sức cảm động trong hoàn cảnh éo le của thời chiến tranh: chịu đựng nhiều thiệt thòi, mất mát; khơi gợi xúc cảm cho người đọc niềm cảm động, khâm phục, quý mến. Từ đó suy nghĩ về tình cảm cha con, tình cảm gia đình trong hoàn cảnh hiện tại: phải biết trân trọng, giữ gìn, vun đắp Từ việc phân tích ba dạng đề nêu trên, giáo viên giúp học sinh nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích, tìm hiểu đề và biết vận dụng thành thạo, linh hoạt để hình thành những thao tác và kĩ năng phân tích đề chính xác. Sau khi tôi cung cấp kiến thức và định hướng cho học sinh các dạng đề dạng đề suy nghĩ và dạng đề cảm nhận tôi cho học sinh xác định nội dung của đề thông qua các thao tác sau: Xác định yêu cầu và tính chất của đề Tôi đã đặt một hệ thống câu hỏi để học sinh tìm tính chất của đề. Cụ thể: Đề yêu cầu làm theo phương thức biểu đạt nào? Đề yêu cầu phân tích, suy nghĩ, cảm nhận, bình giảng, bình luận, giải thích hay chứng minh. Chỉ rõ vấn đề nghị luận Đặt câu hỏi để tìm vấn đề nghị luận: nội dung, chủ đề sẽ nghị luận là gì? Xác định phạm vi, giới hạn vấn đề nghị luận Câu hỏi có thể là: với đề bài đó cần có những tri thức nào? 10 Tôi tiếp tục đưa ra hệ thống câu hỏi để tìm hiểu về giá trị nghệ thuật, cụ thể tôi đã sử dụng Tác phẩm truyện được viết theo phong cách nào? Có nét gì sáng tạo riêng trong nghệ thuật tạo tình huống? Có hình tượng nghệ thuật nào độc đáo? Ngôn ngữ diễn đạt, cấu trúc bố cục của truyện có gì đặc sắc? Tác phẩm truyện trên có tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của tác giả không? Có thể hiện được bản lĩnh sáng tạo của một nhà văn đầy tài năng và tâm huyết cho một thời đại, một trào lưu Văn học không? Câu hỏi gợi mở để liên hệ mở rộng: Đây là loại câu hỏi để đánh giá sự sâu sắc trong cách làm bài của học sinh, có thể hướng dẫn học sinh qua hệ thống câu hỏi như: - Có thể so sánh, đối chiếu với những tác giả, tác phẩm nào để phân tích tác phẩm được sâu rộng, toàn diện hơn? - Tác phẩm truyện có ảnh hưởng gì trong thời đại tác giả đương sống và đối với các thời đại sau này? Tại sao tác phẩm được mọi người yêu thích? Với một hệ thống câu hỏi đó, giáo viên không thể giảng giải một cách cặn kẽ, tỉ mỉ trong quá trình phân tích một đề bài trên lớp, do đó đòi hỏi giáo viên phải biết chọn lựa những câu hỏi tìm ý cho phù hợp, có tác dụng khơi nguồn cảm xúc cho học sinh. Hay nói cách khác, người giáo viên phải biết chọn điểm đột phá. Bởi mỗi tác phẩm truyện (dù là ngắn hay dài) đều là một kho báu vừa lộ thiên vừa bí mật về nội dung và nghệ thuật. Nhiệm vụ của giáo viên là giúp cho các em biết cách khám phá và đột nhập kho báu ấy, nhất là phần sáng tạo kì công của tác giả. Nhưng bắt đầu từ đâu và như thế nào? Đây là vấn đề nghệ thuật giảng dạy. Nếu khéo léo khám phá sẽ có được nhiều cảm xúc, hứng thú gợi mở cho học sinh niềm yêu thích, tích cực tư duy làm bài. Bài nghị luận của các em sẽ sâu sắc, tinh tế và chân thật. Nếu không khéo sẽ làm cho các em nhàm chán và bài viết của các em trở nên lạc lỏng, hời hợt, tẻ nhạt. Ví dụ: Hướng dẫn tìm ý cho đề bài: Suy nghĩ về đời sống tình cảm gia đình trong chiến tranh qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng. Tôi đã gợi ý cho học sinh suy nghĩ trả lời các câu hỏi sau để tìm ý: Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật? Nhận xét và đánh giá về tình cảm gia đình nói chung, về tình cảm cha con anh Sáu trong hoàn cảnh chiến tranh nói riêng? Khi tôi giúp học sinh trả lời hệ thống câu hỏi trên cũng chính là đã tìm được những ý quan trọng. Phong cách viết truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là gì? Ông có những truyện ngắn nào viết về đề tài chiến tranh và gia đình? Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” sáng tác trong hoàn cảnh nào? Thời điểm lịch sử đó có gì đáng lưu ý? Nội dung cơ bản và nghệ thuật tiêu biểu của tác phẩm? Những nhân vật chính của truyện là ai, những nhân vật này có đặc điểm nổi bật gì về tính cách? Tính cách của bé Thu và ông Sáu thể hiện qua những chi tiết nào? 12
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lop_9_truong.doc